(HNNN) – Chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta cách đây hơn hai thế kỷ, hai chữ “Việt Nam” ngày nay được sử dụng rộng rãi, thiêng liêng và gần gũi. Tuy nhiên, nguồn gốc, ý nghĩa và đặc biệt là quá trình hình thành quốc hiệu luôn là vấn đề thú vị được nhiều người quan tâm.
Các quan niệm phổ biến từ trước đến nay và các kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, do sử sách của cả nước ta và Trung Quốc đều ghi chép cụ thể điều này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) cử hai đoàn sứ thần sang Trung Quốc. Một phái đoàn do Thượng thư Bộ Hộ là Trịnh Hoài Đức làm Chánh sứ, đã đến trao trả sách và ấn mà nhà Thanh đã ban tặng cho nhà Tây Sơn. Phái đoàn khác do Thượng thư bộ binh Lê Quang Định làm Chánh sứ đến xin phong tước cho Nguyễn Ánh và đặt quốc hiệu là Nam Việt. Chiếu thư của Nguyễn Ánh chép: “… Qua mấy đời, việc giao đất ngày càng mở rộng, kể cả nước Việt Thường và nước Chân Lạp, đặt tên nước là Nam Việt, tiếp tục hơn hai trăm năm. . Nay lấy hết nước Nam, lấy cả nước Việt Nam, nên theo tên cũ làm nên tên nước … ”.
Cũng trong năm 1802, nhà Thanh phê chuẩn quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (1804), sứ thần nhà Thanh là Tề Bộ Sâm đã mang chứng minh thư và quốc ấn đến Thăng Long để dâng sớ cho Nguyễn Ánh. Như vậy, mặc dù được công nhận từ năm 1802 nhưng phải đến năm 1804, quốc hiệu Việt Nam mới được chính thức công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Giữa hai mốc thời gian này đã xảy ra nhiều cuộc đi lại, tranh luận, đàm đạo phức tạp giữa hai triều Nguyễn – Thanh, vì nhà Nguyễn muốn lấy quốc hiệu của nước ta là Nam Việt như thời các chúa Nguyễn khởi nghiệp nên ông đã không hài lòng ngay với việc nhà Thanh đổi sang Việt Nam. Trong cuốn sách “Nước Đại Việt Nam đối mặt với Pháp và Trung Quốc”, tác giả Nhật Bản Yoshiharu Tsuboi dựa trên kết quả nghiên cứu của nhà Đông phương học Chusei Suzuki cũng đã xác nhận điều đó: “Năm 1803, đã có những cuộc đàm phán rất quan trọng về quốc hiệu dưới triều Nguyễn: Nam Việt hay Việt Nam ”.
Sở dĩ nhà Thanh muốn đổi Nam Việt thành Việt Nam là vì hai lý do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc, có Triệu Đà dẹp loạn căn cứ, lập nước Nam Việt, xưng là Hoàng đế; Các triều đại trung ương ở Trung Quốc không công nhận Nam Việt, cũng không phải nhà Thanh, và không muốn được nhắc nhở về quá khứ kém hùng mạnh đó. Thứ hai (lý do này mới quan trọng!), Nam Việt – theo cách hiểu truyền thống – có thể bao gồm cả vùng nước ta và vùng Việt Đông, Việt Tây (tức Quảng Đông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt là quốc tên của đất nước chúng ta, nó sẽ gây rắc rối về lãnh thổ sau này. Bức thư trả lời của vua Thanh gửi vua Nguyễn đã tế nhị trình bày lý do đó và khéo léo duyệt lấy quốc hiệu của nước ta là Việt Nam: “… Xưa có đất Việt Thường xưng là Nam Việt, nay gọi là Nam. Việt. Kể cả đất An Nam, xem xét kỹ, đất nên có trước có sau và đặt một danh hiệu tốt, nên định lấy chữ Việt lên trên, cho thấy đất cũ được giữ và kế thừa trước; đặt dưới có chữ Nam, chỉ người Nam Giao mở cõi, chịu quan mới. Như vậy danh chính ngôn thuận, nghĩa khí, so với hai nước Việt Nam và Trung Quốc khác nhau rất nhiều … ” .
Thực ra, phải đến đầu thời Nguyễn, tên gọi Việt Nam mới xuất hiện và có nguồn gốc như vậy. Tên gọi Việt Nam đã được biết đến ít nhất từ thế kỷ 14, thường thấy trong nhiều thư tịch đương thời: “Việt Nam Thế Chí” của Hồ Tông Thốc, “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Trừng tiên quốc ngữ văn”. của Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn, “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú… Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cũng đã sưu tầm các văn bia (có niên đại đều trước thế kỷ 18) để khắc. với tên gọi “Việt Nam” ở các địa điểm khác nhau ở miền Bắc như bia chùa Bảo Lâm (1558, Chí Linh, Hải Dương), bia chùa Cam Lộ (1590, Phú Xuyên, Hà Nội), bia chùa Phúc Thành (1664) , Quế Võ, Bắc Ninh), bia Thủy Môn Đình (1670, Đồng Đăng, Lạng Sơn); Trong đó, bia chùa Bảo Lâm và Thủy Môn Đình đã bị thất lạc, hiện chỉ còn lại tem ở Viện Nghiên cứu Hán – Nôm. Tên Việt Nam có lẽ có nghĩa là kết hợp chủng tộc và vị trí địa lý của dân tộc ta (Việt Nam – đất nước của người Việt ở phương Nam), thể hiện niềm tự hào, độc lập và phủ nhận. Sự áp bức và miệt thị của Trung Quốc. Tuy nhiên, nó vẫn chưa thể trở thành quốc hiệu vì nó chưa được các triều đại phong kiến của nước ta tuyên bố hoặc công nhận bằng pháp luật.
Tên Việt Nam chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta lần đầu tiên vào năm 1792 (không phải đầu thời Nguyễn). Nó được thành lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng (dự án) của Nhà nước Tây Sơn, niên hiệu Quang Trung thứ 5 và được truyền sang nhà Thanh (Trung Quốc). Trong tác phẩm “Dụ Am Văn Tập” của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài “Tuyên ngôn đặt quốc hiệu mới” của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) vào mùa xuân năm Nhâm Tý 1792 như sau:
“Đi xuống để cho mọi người trên thế giới biết:
Tôi nghĩ, ngày xưa các bậc đế vương lập quốc đều đặt quốc hiệu để thể hiện sự đổi mới, hoặc dùng tên đất khi mới khai thiên, hoặc dùng những mỹ từ, xét chứng cứ trong sử sách thì rõ. Đất nước ta: những ngôi sao chùa Đực, Chân trời, cõi Việt Nam hùng vĩ. Văn Lang muôn năm, Vạn Xuân còn thô sơ. Thời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt, nhưng người Trung Hoa vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý trở đi, họ quen dùng tên An Nam do nhà Tống đặt cho ngày trước. Tuy nhiên, vận khí dù có thay đổi nhưng bao năm qua vẫn giữ tên cũ, trái với ý nghĩa thực sự của công cuộc dựng nước. Tôi theo nghiệp cũ, gây dựng cơ đồ, đất rộng hơn xưa. Xem qua sách vở, tôi xét sông núi nên có tên tốt để lưu truyền lâu dài… Ban cho đổi tên nước An Nam thành Việt Nam, phải sang Trung Quốc mới biết rõ.
Từ nay về sau, cõi Lửa bang được vững bền, danh lành gọi tên, mọi người trong cõi được yên vui.
Mừng thay, cõi Xuân Thu thống nhất đã lan tỏa khắp bốn phương, muôn dân hưởng lâu, phúc nhiều.
Vì vậy, bây giờ hãy thông báo rộng rãi để mọi người cùng biết.
Hiển thị ngay bây giờ ”.
Tuy nhiên, triều đại Tây Sơn tồn tại không lâu, gặp nhiều phức tạp nội bộ nên quốc hiệu mới là Việt Nam không được sử dụng rộng rãi. Cho đến nay, chúng tôi chưa tìm thấy dữ liệu lịch sử đáng kể nào về phản ứng của nước ngoài (đặc biệt là nhà Thanh – Trung Quốc) trước sự thay đổi quốc hiệu này.
Trong lịch sử nước ta, có một hiện tượng rất thú vị là quốc hiệu và quốc hiệu (quốc hiệu) thường không thống nhất với nhau. Ví dụ, năm 1054, nhà Lý đổi quốc hiệu là Đại Việt, tiếp tục tồn tại đến cuối thời Trần (1400), nhưng sắc lệnh nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh vào ngày 10 tháng 1 năm 1226. đã mở lại. Bắt đầu bằng câu: “Nước Nam ta từ lâu đã có các vị hoàng đế trị vì”. Nhà Hồ (1400 – 1407) đổi quốc hiệu là Đại Ngu (đại thái bình), nhưng đa số dân chúng vẫn gọi là Đại Việt, còn người Trung Hoa gọi là Giao Chỉ. Vào thế kỷ 15, trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi viết: “Vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra tài đức của bậc thánh hiền, được phong làm tổ tiên Bách Việt”, nhưng trong “Bình Ngô đại cáo. Đại Cáo ”ông lại viết:“ Như nước Đại Việt ta trước kia xưng là văn hiến lâu đời ”. Thời Gia Long (trị vì 1802-1820), quốc hiệu là Việt Nam, nhưng một bộ phận người dân vẫn quen gọi là Đại Việt, còn người Hoa và người phương Tây thường gọi là An Nam …
Sau khi lên ngôi vua Gia Long, vua Minh Mạng đổi quốc hiệu là Đại Nam (cuối năm 1838), tên gọi Việt Nam không còn thông dụng như trước. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hai tiếng Việt đã được các sử gia, văn nhân yêu nước sử dụng trở lại, trong nhiều tác phẩm và tên các tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết: Việt Nam sử lược ”(1905), sau đó cùng cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hội (1908), Việt Nam Quang phục hội (1912); Phan Châu Trinh viết “Pháp – Việt hậu liên minh Tân Việt” (1914), Trần Trọng Kim viết “Việt Nam sử lược” (1919) Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) và Việt Nam Độc lập Đồng minh hội (1941).
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền chính thức cho Bảo Đại. Vua Bảo Đại đổi quốc hiệu từ Đại Nam thành Việt Nam. Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh xưng. Từ đó, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng rộng rãi, mang ý nghĩa toàn diện và thiêng liêng nhất.