Theo chân các bậc tiền nhân trên cánh đồng bên bờ sông Đuống vào một ngày xuân nắng ấm. Từ giữa thôn Chí Trung (xã Tân Chi, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), ngày đêm chúng tôi băng qua con đê với hai làn xe ô tô để đến bãi bồi ven sông Đuống.
Có một con đê nhưng không gian và cảnh vật hai bên hoàn toàn khác nhau, bên này vừa hòa vào tiếng nhạc rộn ràng, sôi động, vừa rộn ràng, bên này ta lại được thưởng thức âm thanh du dương, êm dịu. giữa khung cảnh non nước thơ mộng, khoáng đạt của đất trời.
Sắc xuân như níu bước chân lữ khách, cảm giác như chìm đắm, lạc vào miền sơn cước yên bình, tách biệt hoàn toàn với nhịp sống hối hả của thành thị. Đó là hành trình của chúng tôi đi tìm dấu tích của cây cầu chín nhịp bắc qua sông Đuống đã trôi vào dĩ vãng mấy trăm năm trước.
Cho đến nay, không ai biết cầu Hồ cổ được xây dựng ở đâu, nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải cho biết, cách đây hơn 20 năm, ông và một nhà báo đã phát hiện còn một số bia đá phản ánh việc xây dựng, sửa chữa cầu Hồ trong lịch sử và là hiện lưu giữ tại chùa Giao Dương (xã Tân Chi, huyện Tiên Du).
Chúng tôi đến Đền Thờ, ngôi đền cổ kính ẩn mình dưới bóng cây cổ thụ soi bóng xuống dòng Thiên Đức hiền hòa. Nơi đây từng là một trong những trung tâm Phật học lớn đào tạo Tăng Ni cho nhiều ngôi chùa ở vùng Kinh Bắc xưa.
Cùng với thờ Phật, chùa còn thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không, vị Quốc sư thời vua Lý Thần Tông. Chùa được xây dựng từ lâu đời, quy mô lớn với nhiều hạng mục công trình nhưng đã bị phá hủy hoàn toàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi hòa bình lập lại, nhân dân địa phương đã xây dựng lại chùa.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải đã điền dã, tìm hiểu các văn bia ghi lại việc xây dựng, sửa chữa cầu Hồ ở chùa Giao Dương (xã Tân Chi, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh).
Giá trị độc đáo nhất của Nhà thờ hiện nay là hệ thống bia đá. Trong đó có 5 tấm bia khắc thế kỷ 18 ghi việc xây dựng và sửa chữa cầu Hồ cũ, gồm: “Lập Kiêu Giang Bí” và “Hồng Kiêu Bí Ký” đều được dựng vào năm Vĩnh Thịnh 3 (1707), ” Phục dựng Hồng Kiều Sưu tập Thư tịch “khắc năm Vĩnh Thịnh 13 (1717),” Thập phương phúc đức “khắc năm Cảnh Hưng 21 (1760),” Phục hồi Hồng Kiều bi “khắc trong năm Cảnh Hưng thứ 31 (1770).
Mỗi tấm bia là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, từ hoa văn trang trí đến chạm khắc chữ Hán. Tấm bia có kích thước lớn nhất với chiều cao lên đến 2,2m (riêng đỉnh bia cao 60cm), rộng 70cm, tấm bia nhỏ nhất cao 90cm, rộng 70cm, dày 27cm.
Có 4 tấm bia đá tứ diện hình long đình, xung quanh bia trang trí hình mây, lá, chim, hoa, mặt bia khắc hình rồng, cả 4 mặt đều khắc chữ Hán.
Tấm bia “Tái sinh Hồng Kiều Bí” khắc năm 1770 có đoạn nói về việc xây cầu do nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải dịch như sau: “… Việc xưng tụng bắt đầu từ tiền Hội chủ là Thủ Lai. Quận cô nương hai năm Chính phủ là sự kết hợp của cả mười phương kính tin; Người đi xa ít nhiều đều có, người có công, người có tiền, người đi đường tìm phúc.
Xây cầu để mọi người vui vẻ đi chợ mua bán. Nhà giàu, thương gia vui vẻ xuất ra hàng nghìn đô la giúp làm nhịp cầu mong sống ở Hồng Kiều nhiều khách. Nhân đó, dựng bia đá ghi danh công trình cầu hoàn thành để ghi danh các chúa dưới đáy đá để vua lưu danh muôn thuở, để con cháu được phúc làm cầu. điều này, để ngàn năm sau công chúng sẽ biết… ”.
Nội dung văn bia cho biết cầu Hồ xưa do nhân dân Thuận An và Từ Sơn xây dựng với công đức của mười phương và những lần tu sửa cầu. Trên tấm bia cũng ghi tên những người có công, không đề cập đến địa điểm xây dựng, cũng không mô tả chi tiết thiết kế và công năng của cầu Hồ.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu, nghiên cứu, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải khẳng định: Bia đá nói về việc xây cầu trên sông Đuống đều đọc là “hồng kiều”. “Kiều” có nghĩa là cầu, và “hồng” có nghĩa là cầu vồng. Như vậy, thiết kế của cầu Hồ xưa là cầu vồng chứ không phải cầu phẳng. Sở dĩ dựng cầu vồng có lẽ là để tàu bè qua lại dễ dàng, nhất là vào mùa nước nổi.
Nhắc lại câu ca dao: Cầu Hồ chín nhịp / Đố ai trêu được cô Tấm ”, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Khải cũng cho rằng, với sử liệu trong ca dao trên, rất có thể cầu Hồ xưa đã. Cầu được làm bằng đá và có 9 nhịp.
Giả thiết này cũng có lý vì trước đây sông Đuống là dòng chảy tự nhiên, là phụ lưu của sông Hồng chứ không rộng như bây giờ.
Theo các nguồn thư tịch cổ, sông Thiên Đức từ thời Lý đã đóng vai trò quan trọng nên qua các thời Lý, Trần, sông này hàng năm mới mở, nhưng phải đến thời Nguyễn, dưới thời vua Minh Mệnh, rằng sông đã rõ ràng. Dòng sông mới được cải tạo, mở rộng hoàn toàn để giảm ngập lụt cho Hà Nội.
Không hiểu sao cầu Hồ cũ biến mất. Nhưng hàng trăm năm nay, sông Đuống vẫn chảy, ôm ấp bao huyền thoại, bồi đắp nên những nét văn hóa đặc trưng của vùng đất Bắc Ninh – Kinh Bắc truyền thống và năng động.
Và năm 1998, sau ngày tái lập tỉnh, Bắc Ninh quyết tâm xây dựng cây cầu Hồ hiện đại đầu tiên bắc qua sông Đuống thay cho cây cầu lịch sử để thỏa bao thăng trầm của nhân dân hai miền Nam Bắc. Dòng sông. .
Giờ đây, trên sông Đuống qua Bắc Ninh, cùng với cầu Hổ, cầu Bình Than, cầu Phật Tích cũng sắp hoàn thành, tạo điều kiện cho vùng Quan họ giao thương ngày càng văn minh, phát triển.
Chuyên mục tiếp theo Đề án Hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về dân tộc – tôn giáo năm 2021