Mâu thuẫn hay mâu thuẫn?
Triết lý bảo hộ của Luật SHTT là đề cao và ghi nhận sự sáng tạo, trí tuệ của mỗi cá nhân cụ thể. Do đó, ở cấp độ quốc tế, kể từ năm 2019, Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) đã bắt đầu thảo luận về tác động của AI đối với hệ thống luật sở hữu trí tuệ hiện đại. Theo đó, mỗi quốc gia thành viên đưa ra chiến lược riêng phù hợp với tình hình thực tiễn của riêng mình.
Thông thường, quyền sở hữu các tác phẩm được tạo ra từ chương trình máy tính sẽ không có gì phải bàn cãi, vì chương trình máy tính được hiểu đơn thuần là một công cụ hỗ trợ quá trình sáng tạo, giống như bút, giấy hay công cụ vẽ. Các điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả là tính nguyên bản và tính sáng tạo, với hầu hết các định nghĩa đều yêu cầu tác giả là một con người.
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều tác phẩm được tạo ra từ AI, có giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật và thương mại cao. Ví dụ: (i) một tác phẩm nghệ thuật do máy tính tạo ra năm 2016 ở Hà Lan có tên là “The Next Rembrandt”; (ii) bài hát AI love song do Nguyễn Hoàng Bảo Đại – kỹ sư CNTT đến từ Việt Nam phát triển, bài hát này AI viết nhạc với tốc độ 10 giai điệu / 1 giây. Đây là những minh chứng rất rõ ràng cho nhận định “máy móc hoàn toàn có khả năng tự suy nghĩ và đưa ra quyết định”.
Do đó, khi việc sử dụng AI để tạo ra các tác phẩm đã trở nên phổ biến hơn, vấn đề bản quyền sẽ được đưa ra để xem xét và thảo luận một cách thấu đáo và rộng rãi. Với một tác phẩm do AI làm ra, ai sẽ là chủ thể của bản quyền? Lập trình viên (người tạo ra AI), người sử dụng chương trình (người đã “dạy” cho AI cách học), hay chính AI (chủ thể trực tiếp tạo ra tác phẩm)?
Nếu như đối với phần mềm Microsoft Word, tác giả chỉ sử dụng Word như một công cụ sắp xếp các câu văn để sáng tác tác phẩm của mình, thì với phần mềm “AI soạn nhạc”, AI hoàn toàn có khả năng tạo ra âm nhạc. Với khả năng tạo ra các tác phẩm một cách độc lập, việc đóng góp của người dùng vào quá trình sáng tạo có thể chỉ đơn giản là nhấn nút để máy thực hiện. Tất nhiên, người dùng sẽ chịu trách nhiệm cung cấp đầu vào, đồng thời lọc và xử lý đầu ra của sản phẩm, nhưng phần sáng tạo phần lớn vẫn do chính AI thực hiện. Tương tự như “AI soạn nhạc”, Recurrent Neural Networks (RNN – chương trình AI có khả năng đọc văn bản và soạn câu theo cùng một phong cách) do Andrej Karpathy (Đại học NCS Stanford) phát triển đã gây bất ngờ lớn. Là một chương trình trí tuệ nhân tạo có khả năng viết văn bản, nó đã viết một số bài báo trên Wikipedia với giọng đọc của nhà thơ vĩ đại Shakespeare. Vì vậy, với việc các nghệ sĩ và người sáng tạo sử dụng AI ngày càng trở nên phổ biến, sự phân biệt giữa các tác phẩm được tạo ra từ máy tính và kỹ thuật sinh học nói chung bị xóa nhòa. Điều này đặt ra một thách thức đối với các nguyên tắc cơ bản của bản quyền truyền thống, vốn thường chỉ bảo vệ các tác phẩm do chính con người tạo ra.
Hơn nữa, cách thức hoạt động của AI là học máy từ những tri thức khác của con người nên câu chuyện vi phạm bản quyền là hoàn toàn có thể xảy ra. Mặc dù lập trình viên đã lập trình một thuật toán ngẫu nhiên trong AI để cho phép tạo ra các sản phẩm khác nhau (AI tự kiểm soát bản quyền), nhưng vai trò của luật là lường trước các tình huống có thể xảy ra. trong tương lai, hoặc với sự cố ý lạm dụng AI của lập trình viên. Điều này đã tạo ra thách thức cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc kiểm soát và xử lý vi phạm. Làm thế nào để xác định mức độ vi phạm? Những biện pháp trừng phạt nào có thể áp dụng cho những “tác giả” này? Có thể xử lý dựa trên hệ thống Luật SHTT hiện hành không hay có những quy định riêng cho nhóm đối tượng này?
Bên cạnh quyền tác giả, AI cũng gây ra một số tranh cãi liên quan đến các đối tượng khác của Quyền sở hữu công nghiệp, đặc biệt là Bằng sáng chế. Vào cuối năm 2019, Văn phòng Sáng chế Châu Âu (EPO) đã nhận được đơn đăng ký bằng sáng chế (số EP3564144) cho một hộp đựng thực phẩm do một thực thể AI có tên DABUS tạo ra. Người xin cấp bằng sáng chế là Tiến sĩ Stephen Thaler – người tạo ra DABUS. Mặc dù giải pháp kỹ thuật này đáp ứng tất cả các điều kiện bảo hộ sáng chế (tính mới, tính sáng chế, khả năng áp dụng công nghiệp), tuy nhiên, theo Điều 58 của Công ước về sáng chế châu Âu, Sáng chế viên phải là con người. Do đó, Cơ quan Sáng chế Châu Âu đã từ chối bảo hộ bằng sáng chế này.
Tương tự như bản quyền, vấn đề AI có thể xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng được WIPO khuyến nghị là vấn đề pháp lý cần giải quyết. Luật pháp của hầu hết các quốc gia giao trách nhiệm pháp lý đối với các vi phạm do AI gây ra cho các cá nhân và tổ chức được xác định. Luật Châu Âu quy định “hành vi sử dụng sản phẩm phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại xảy ra” nên chủ thể sử dụng AI sẽ phải chịu trách nhiệm về những hành vi xâm phạm do AI gây ra. Điều này có thể dẫn đến rủi ro cao cho người dùng AI, đặc biệt là trong trường hợp AI có vấn đề. Thực tế, thời gian gần đây, khi có các hành vi xâm phạm quyền SHTT liên quan đến AI, nguyên đơn thường khởi kiện công ty phát triển phần mềm chứ không phải người dùng. Tuy nhiên, với những AI tự vận hành (xe tự lái, Sofia,…) thì bản thân các nhà phát triển cũng không thể đoán trước được nên trách nhiệm dành cho họ thực sự rất mơ hồ. Do đó, việc áp dụng các nguyên tắc pháp lý truyền thống để giải quyết các hành vi xâm phạm quyền sáng chế là một thách thức thực sự đối với các nhà lập pháp.
Kinh nghiệm quốc tế trong việc bảo vệ các tác phẩm được tạo ra từ AI
AI là xu hướng phát triển của tương lai, vì vậy các vấn đề pháp lý xung quanh AI luôn là chủ đề mới và gây tranh cãi, đặc biệt là câu chuyện bản quyền. Hiện thế giới vẫn chưa thống nhất quan điểm chung về bảo hộ sản phẩm khỏi AI, nhưng nhìn chung, có 2 cách để hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ hiện đại tham gia xử lý, bao gồm: (i) Không thừa nhận QTG của AI khi tạo ra những tác phẩm này; (ii) Xác nhận rằng QTG thuộc về người đã tạo ra AI (chương trình máy tính).
Cấp bản quyền cho AI hay không, vẫn là vấn đề của các khung pháp lý quốc gia khác nhau (ảnh minh họa)
Với quan điểm rằng luật bản quyền được sử dụng với mục đích bảo vệ thành quả lao động trí óc của con người, bảo vệ những giá trị sáng tạo do con người tạo ra, Cục Bản quyền Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng “họ sẽ chỉ cho phép đăng ký bản quyền đối với những tác phẩm là kết quả của hoạt động của con người. ” Văn phòng Bản quyền Hoa Kỳ đã từ chối tất cả các đơn đăng ký cho QTG khi xác định rằng các tác phẩm không phải do con người tạo ra. Bằng cách tiếp cận này, bất kỳ tác phẩm nào được tạo ra từ AI sẽ không được luật pháp quốc tế tại Hoa Kỳ công nhận, đồng nghĩa với việc các tác phẩm đó sẽ được sử dụng một cách “công khai”.
Tương tự, tại Úc, đã có ít nhất ba trường hợp Tòa án Liên bang cho rằng các tác phẩm được tạo ra từ các chương trình máy tính không được coi là đủ điều kiện để được bảo hộ bản quyền. Tại châu Âu, Tòa án Công lý của Liên minh châu Âu (CJEU) cũng đã tuyên bố rằng “quyền tác giả chỉ áp dụng cho tác phẩm gốc và tác phẩm sáng tạo, phải phản ánh trí tuệ sáng tạo của chính tác giả”.
Trong khi đó, tại một số quốc gia như Ấn Độ, Hong Kong, Anh, New Zealand hay Ireland, hệ thống IP cấp bản quyền cho lập trình viên. Tại Vương quốc Anh, khái niệm về các tác phẩm do AI tạo ra đã được đề cập từ rất sớm, điều này đã được ghi nhận trong Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bằng sáng chế năm 1988 (CDPA). Cụ thể, điều 9 (3) của CDPA 1988 quy định: “Trong trường hợp tác phẩm văn học, kịch, âm nhạc hoặc nghệ thuật được tạo ra bằng máy tính, tác giả sẽ là người sắp xếp cần thiết cho việc tạo ra tác phẩm. sản phẩm được tạo ra ”, cách tiếp cận này hướng tới việc phân bổ bản quyền cho những người tạo ra các chương trình máy tính này (cụ thể là các lập trình viên).
Ngoài ra, tác phẩm do máy tính tạo ra được định nghĩa là “tác phẩm do máy tính tạo ra mà không có tác giả là con người” (điều 178 của CDPA 1988). Việc làm rõ khái niệm trên tạo tiền đề cho việc giải quyết các khiếu nại về bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm do AI tạo ra. Có thể thấy, cách tiếp cận QTG này của Vương quốc Anh là một cách tiếp cận khá cởi mở, khi đã đưa ra một ngoại lệ để công nhận QTG đối với những tác phẩm được tạo ra bởi một loại “tác giả” không phải là con người. Tuy nhiên, chính sự công nhận của QTG đối với các công trình này cũng khiến các chuyên gia trong lĩnh vực đặt ra nhiều câu hỏi hoài nghi. Với quan điểm Tổ chức Thương mại Thế giới là công cụ bảo vệ giá trị sáng tạo của con người, giá trị sáng tạo của bộ não con người là sự công nhận của Tổ chức Thương mại Thế giới đối với những sản phẩm do máy này tạo ra có công bằng với các tác giả khác hay không , khi họ đang sử dụng chính trí óc của mình để tạo ra những tác phẩm thực sự.
Theo NGUYỄN THÚY DŨNG – Khoa Kinh tế Luật và Quản lý Nhà nước, UEH