Ấp trứng độc đáo bằng công nghệ vi sinh

Rate this post


An giang Nông dân An Giang đã thực hiện thành công mô hình tái sản xuất ứng dụng công nghệ vi sinh trong ương giống cá lăng chấm gắn với bảo vệ môi trường.

Những năm gần đây, phong trào nuôi cá nục đang phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long.  Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Những năm gần đây, phong trào nuôi cá nục đang phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long. Hình ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Những năm gần đây, phong trào nuôi cá chép thương phẩm đang phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là đối tượng mới trở thành món ăn đặc sản có mặt trong các nhà hàng, quán ăn lớn, trong thịt cá nục giàu dinh dưỡng nên đã mang lại giá trị kinh tế cao cho thị trường.

Mastacembelus favus là một loài cá nước ngọt có thân màu xanh đen hoặc xám đen, trên thân có nhiều đốm màu vàng hình tròn hoặc bầu dục. Vây lưng, vây hậu môn và vây ngực có đốm đen nhỏ, không có vây bụng. Khi còn nhỏ, thức ăn chính của cá chạch là giun, ấu trùng côn trùng, động vật giáp xác nhỏ. Khi lớn, cá ăn côn trùng trưởng thành, tôm, cá nhỏ và các chất hữu cơ.

Trong tự nhiên, cá nục sinh trưởng sau 1 năm tuổi có thể đạt 150-250 gam / con, dài 18-25cm, sau 2 năm 450-500 gam, dài 35-40cm. Chúng trưởng thành và sinh sản sau 2-3 năm. Con đực thường lớn hơn con cái, mặc dù cùng tuổi. Con cái có sức sinh sản 4.500 – 7.500 trứng / lần, trứng có kích thước nhỏ, màu vàng. Cá thường đẻ vào mùa mưa, nước đục, từ tháng 6 đến tháng 9, nơi đẻ trứng là các hang, bãi đá ngầm ven sông, suối.

Để phát triển cá thương phẩm, trước hết giống cá này phải có nguồn giống chất lượng tốt mới giúp người nuôi đạt chất lượng cao, đảm bảo nguồn lợi nhuận cho người nuôi.

Mastacembelus favus là một loài cá nước ngọt có thân màu xanh đen hoặc xám đen, trên thân có nhiều đốm màu vàng hình tròn hoặc bầu dục.  Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Mastacembelus favus là một loài cá nước ngọt có thân màu xanh đen hoặc xám đen, trên thân có nhiều đốm màu vàng hình tròn hoặc bầu dục. Hình ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Hơn 3 năm qua, anh Nguyễn Bá Sáng, ở xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn (An Giang) đã triển khai thành công mô hình sinh sản ứng dụng công nghệ vi sinh trong ấp ấu trùng và bảo vệ liên kết. Môi trường. Đây là mô hình được ngành thủy sản An Giang đánh giá cao.

Anh Nguyễn Bá Sáng chia sẻ: Trước đây, gia đình sống chủ yếu bằng nghề sản xuất và nuôi trồng thủy sản tại xã Phú Thuận, vùng trọng điểm của huyện Thoại Sơn về nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, nơi đây phát triển mạnh tôm càng xanh, lươn không bùn công nghệ cao, nuôi cá trong ao.

Bản thân anh luôn nghiên cứu, tiên phong áp dụng các mô hình mới để nâng cao giá trị kinh tế, trong đó, cá nục, một đối tượng nuôi mới và tiềm năng. Hiện các gia đình có cơ sở sản xuất giống đang thực hiện mô hình chuỗi sản xuất từ ​​cá hương lên cá giống, trong đó khâu ương nuôi vỗ cá bố mẹ và sinh sản là khâu then chốt quyết định chất lượng và tỷ lệ sống của cá. cá.

Cá bố mẹ được lấy từ 2 nguồn là cá sông và cá trong ao, theo một tỷ lệ nhất định để tránh gây cận huyết làm giảm tốc độ tăng trưởng của cá, khiến cá dễ bị dị hình, dị tật. Cá mẹ phải được nuôi bằng thức ăn công nghiệp chất lượng cao, độ đạm từ 40-42%.

Vuốt bụng để lấy trứng cá muối.  Ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Vuốt bụng để lấy trứng cá muối. Hình ảnh: Lê Hoàng Vũ.

Tôm nuôi 3 – 4 tháng là bắt đầu sinh sản. Trong giai đoạn sinh sản, kỹ thuật ấp trứng cá muối là quan trọng, nấm ăn trứng là công đoạn khó và cần nhiều yếu tố mới đem lại tỷ lệ nở cao. Để ấp trứng đạt tỷ lệ cao, anh Sáng đã áp dụng quy trình sử dụng vi sinh ức chế nấm bệnh trong giai đoạn ấp.

Theo ông Sáng, ngoài nguồn nước để ấp trứng, nước sau khi được lọc sẽ được khử trùng, sục khí trong 12 giờ để loại bỏ vi sinh vật trong nước và phân hủy hết chất khử trùng còn lại. hiện hữu. Sau đó, ủ chủng Bacillus subtilis 3 giờ trong môi trường nhiệt độ 290C, độ mặn 50/00, mật độ ấp 10 gam / 20 lít nước.

Sau đó để vi sinh tự nhân đôi rồi thả tất cả vào bể nước ấp. Sau khi trứng được thụ tinh, đưa vào bể ấp với các điều kiện trên, tỷ lệ nở cao hơn so với phương pháp trước đây từ 10 – 20%. Tỷ lệ thụ tinh trung bình 85%, tỷ lệ nở từ 70 – 75%.

Áp dụng phương pháp này hạn chế được thời gian nấm tấn công vào trứng cá, mức độ bùng phát của nấm trong quá trình ấp không cao, nguồn nước để ấp trong và sạch hơn, ít thay nước và ít tốn nước hơn. trong quá trình ủ giảm 20% lượng nước sử dụng. Qua đó, giảm chi phí đầu tư, giảm lượng nước thải ra môi trường, ít ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.

“Nếu áp dụng đúng quy trình kỹ thuật thì chất lượng cá bột khỏe mạnh, ít dị dạng, dị tật, cá giống có tỷ lệ sống cao, cá ít bị dịch bệnh, tốc độ sinh trưởng nhanh, nhờ đó năng suất tăng cao. năng suất và giá trị sản phẩm của cá nục ”, ông Sáng cho biết.

Leave a Comment