(Baonghean.vn) – Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác địch vận. Năm 1948, Người căn dặn: “Đánh giặc thì thắng, không đánh mà thắng giặc còn hơn cả, không đánh thì thắng, nhờ giặc mà thắng”. Vì vậy, ông rất quan tâm đến tờ báo “Waffenbrüder” (Waffenbrüder) – một tờ báo viết bằng tiếng Đức và tiếng Pháp do Đảng và Nhà nước ta chỉ đạo cho ông Erwin Borchers (người Đức, lính lê dương. Pháp bỏ quân nhập ngũ với ta) thực hiện, sử dụng kêu gọi lính lê dương từ bỏ con đường phục vụ thực dân Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: Tư liệu lịch sử |
Tại sao lại có tờ báo “Anh em chiến đấu”?
Sau chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), Pháp không giấu tham vọng trở lại Đông Dương. Tuy nhiên, do tiềm lực quân sự của Pháp đã bị phát xít Đức phá hủy trong quá trình chiếm đóng (1941-1944), nước này đã sử dụng lính lê dương bên cạnh quân đội Pháp và binh lính từ các thuộc địa Bắc Phi. .
Legionnaires là lính đánh thuê nước ngoài cho Pháp. Đội quân này ra đời từ năm 1831 và tồn tại cho đến tận ngày nay. Theo thống kê, từ năm 1946 đến năm 1954, 72.833 lính lê dương và sĩ quan đã tham chiến tại chiến trường Đông Dương.
Tuy nhiên, khi thấy được sự tàn ác của thực dân Pháp, nhiều lính lê dương đã bỏ quân gia nhập Việt Minh. Năm 1947, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Pháp Paul Coste Floret đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh trao trả những lính lê dương đã đào ngũ và tham gia Việt Minh, nhưng ông từ chối bất chấp mọi lời đe dọa.
Trong số đó có Erwin Borchers (người Đức), lính lê dương Pháp tham gia Việt Minh sớm nhất từ năm 1945. Sau khi tham gia Việt Minh, ông làm việc tại tờ báo “Nhân dân” (Le Peuple) xuất bản. bằng tiếng Pháp với nội dung phục vụ chiến dịch đánh địch.
Sau đó, khi Toàn quốc kháng chiến bùng nổ (19/12/1946), ông phụ trách đánh địch chủ yếu là lính lê dương Đức và lính lê dương châu Âu. Do quân số Đức trong quân lê dương của Pháp lên tới hàng chục nghìn người nên Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo ông và các cộng sự viết và xuất bản tờ báo “Waffenbrüder” (Waffenbrüder) bằng tiếng Đức và tiếng Pháp. .
Thực hiện chỉ đạo của cấp trên, anh viết nhiều bài cho tờ báo với bút danh Người chiến sĩ. Những tờ báo in ngay lập tức được giao cho du kích để rải xung quanh các đồn bốt của địch để kêu gọi lính lê dương Đức và cả lính lê dương châu Âu từ bỏ con đường phục vụ người Pháp.
Thư gửi báo “Chiến sĩ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Báo “Máy bay chiến đấu” (Waffenbrüder). Ảnh: Tư liệu lịch sử |
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chia sẻ: “Kinh nghiệm của tôi là: Mỗi khi viết một bài báo, tôi đều tự đặt câu hỏi: Tôi viết cho ai? Viết để làm gì? Làm thế nào để viết dễ hiểu, ngắn gọn và dễ đọc? Khi bạn viết xong, xin vui lòng xem nó và sửa lại nó. “[1] và Người nhấn mạnh “sứ mệnh của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”[2].
Để góp ý về hình thức và nội dung giúp tờ báo “Những người bạn chiến đấu” được lòng bạn đọc là lính lê dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư gửi báo “Các đồng chí chiến sĩ” (ngày 10-2-1948). bức thư, người viết:
“Bạn thân mến,
Cảm ơn bạn rất nhiều về số báo Bạn chiến đấu. Đây là một vài gợi ý cho bạn: tờ báo này dành cho lính lê dương, những chàng trai vui tính, cáu kỉnh, dễ xúc động, không sâu sắc về chính trị.
Vì vậy, cần có những bức tranh, những bức vẽ vui nhộn, những gì gây cười, những bản tin ngắn về Đức và Pháp – nhất là những tin tức liên quan đến đời sống của người dân. chẳng hạn như không đủ nguồn cung cấp thực phẩm, đình công, mất tập trung từ các cơ quan quản lý, v.v.).
Tóm lại, chúng ta cần chạm vào chúng, làm chúng thoải mái, khiến chúng cười và khóc để lôi kéo chúng về phía chúng ta.
Đừng viết bài dài.
Không viết về những vấn đề chính trị lớn của thời đó.
Bạn nghĩ sao?”
Vài tháng sau, phóng viên báo “Những người bạn chiến đấu” đã có cuộc phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh. Báo Cứu quốc số 938 ngày 25-5-1948, chi nhánh số 6 in ở Liên khu X đăng lại bài trả lời của Người.
– Hỏi: Chủ tịch, ông ghét điều gì nhất?
– Câu trả lời: Độc ác.
– Hỏi: Tổng thống mong muốn điều gì nhất?
– Câu trả lời: Nền độc lập của đất nước tôi và của tất cả các nước trên thế giới.
– Hỏi: Chủ tịch, ông sợ điều gì nhất?
– Câu trả lời: Không sợ gì cả. Người yêu nước không sợ bất cứ điều gì và không phải sợ gì.
Năm 1950, báo “Những người bạn chiến đấu” đổi tên thành báo “Trở về” nhằm tăng cường kêu gọi lính lê dương từ bỏ con đường phục vụ thực dân Pháp. Năm 1951, Hội nghị Diệm phổ biến phương châm vận động binh lính Âu – Phi chiến đấu “đòi hồi hương và hòa bình ở Việt Nam”, coi đó là khẩu hiệu trung tâm.
Vì vậy, theo thống kê, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), 1.373 lính lê dương và 288 lính Pháp đã xuất ngũ tham gia Việt Minh. Nhiều người trong số họ đã có nhiều đóng góp xứng đáng cho các ngành chỉ huy, tham mưu, kỹ thuật, huấn luyện, quân y, vũ trang, tuyên truyền … của cách mạng nước ta.
Cuối tháng 2/1954, ông Erwin Borchers cùng đội tuyên truyền địch vận lên Điện Biên Phủ. Họ thả truyền đơn và dùng loa kêu gọi lính lê dương và các đơn vị Bắc Phi hạ vũ khí.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược sau đó đã kết thúc thắng lợi. Các tờ báo lớn nhất thế giới đồng loạt đưa tin về chiến thắng “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” này. Trong đó, tạp chí Time của Mỹ số ra ngày 22/11/1954 viết rằng đây là “kỳ tích của quân đội một nước châu Á khi đánh bại những kẻ là” ông chủ “của họ đến từ châu Âu”.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, lực lượng Việt Minh đã có một đội quân chiến đấu trong rừng rậm hiệu quả nhất Đông Nam Á, một vị tướng tài ba nhất Đông Nam Á, Võ Nguyên Giáp, một hệ thống chính trị ổn định nhất do Hồ Chí Minh đứng đầu và có một cấp lãnh đạo ”- tạp chí Time viết tiếp.
Đồng chí William Foster, Chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ, đã viết trên tờ “Nhật báo Công nhân” ngày 10/5/1954 như sau: “Bộ đội Hồ Chí Minh đã tiêu diệt được tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một kỳ tích, sự kiện có ý nghĩa to lớn Thất bại này không chỉ là thất bại thảm hại của thực dân Pháp liều mình thực hiện âm mưu xâm lược đất nước Đông Dương giàu đẹp, mà trước hết là thất bại to lớn của kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, v.v. Chiến thắng Điện Biên Phủ là sự cổ vũ to lớn đối với các lực lượng đấu tranh chống đế quốc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, đồng thời với sự phát triển ở Đông Dương trong giai đoạn vừa qua đã đẩy mạnh và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chính sách thống trị tàn bạo của Mỹ ở các nước tư bản khác… ”.
Ông Erwin Borchers (người Đức), lính lê dương Pháp tham gia Việt Minh từ năm 1945. Ông cùng các đồng chí xuất bản tờ báo “Người bạn chiến đấu” (Waffenbrüder) để vận động lính lê dương Pháp trở lại chiến khu. Bộ đội Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. |
Lính lê dương Pháp trở thành Lính “Việt Nam mới”
Chiến sĩ “Việt Nam mới” là người nước ngoài tình nguyện đứng vào hàng ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong số đó có những lính lê dương của Pháp đã bỏ quân tham gia cách mạng. Đây là hai chiến sĩ tiêu biểu của “Việt Nam mới”.
Ông Kostas Sarantidis tức Nguyễn Văn Lập – Anh hùng LLVTND (áo trắng) cùng các đồng đội cũ ở Liên khu V chụp ảnh lưu niệm cùng Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam. Ảnh: Tư liệu lịch sử. |
Ông Kostas Sarantidis (Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân):
Ông Kostas Sarantidis (phải) và đồng đội trong hàng ngũ “Bộ đội Cụ Hồ”. Ảnh: Tư liệu lịch sử. |
Từ một lính lê dương từng tin vào sự lừa bịp của thực dân Pháp là sang Đông Dương để “giải phóng” các nước ở đây khỏi tay phát xít Nhật, tháng 6-1946, ông Kostas Sarantidis (SN 1927 tại Hy Lạp) đã tiếp bước hàng ngũ của “ Bộ đội Cụ Hồ ”.
Sau đó, anh nhớ lại: “Khi đến đó, tôi mới biết mình đã bị lừa. Tôi không thấy bất kỳ tiếng Nhật nào. Thay vào đó, anh ta được lệnh bắn với Việt Minh! Chúng tôi là những người bị đô hộ gần 400 năm, từ già đến trẻ, không ai muốn đánh nhau, xâm lược ai ”.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), với tên Việt Nam là Nguyễn Văn Lập, ông được Đảng và Nhà nước ta phân công làm nhiều công việc trong các đơn vị quân chính quy Liên khu 5, có mặt trong nhiều trận chiến đấu. khốc liệt ở miền Trung.
Khi được giao nhiệm vụ Giám thị Trại giam Âu Phi số 3, Quảng Ngãi, anh đã làm tốt công tác giáo dục, làm cho các em hiểu được chính nghĩa chống giặc ngoại xâm của Việt Nam và chính sách nhân đạo của bọn chống phá chính quyền. chiến tranh.
Ba năm sau khi tham gia kháng chiến chống Pháp, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau Hội nghị Giơnevơ năm 1954, ông tập kết ra Bắc, làm Trung đội trưởng Trung đội Tiếp tế sân bay Gia Lập, lái xe tải ở các mỏ than Na Dương, mỏ thiếc Cao Bằng, làm phiên dịch cho các chuyên gia Cộng sản. Cộng hòa Dân chủ Đức tại Nhà máy In Tiến bộ.
Năm 1965, ông và gia đình trở về Hy Lạp, nơi ông vẫn còn mẹ già đang sinh sống. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Hy Lạp và tích cực vun đắp mối quan hệ Hy Lạp – Việt Nam. Năm 2013, anh được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ông Stefan Kubiak (người vinh dự được mang họ Bác Hồ):
Stefan Kubiak (người Ba Lan), Đại úy Quân đội nhân dân Việt Nam Hồ Chí Toàn. Trước đó, ông là lính lê dương người Pháp bỏ quân tham gia Việt Minh. Ảnh: Tư liệu lịch sử |