Những người chuyển sang đạo Tin lành, đạo Phật, đạo Công giáo không chỉ là quần chúng đồng bào dân tộc thiểu số mà còn mở rộng ra các thành phần khác như người có tiền sử gắn bó với cách mạng, cán bộ, đảng viên, thậm chí cả hội viên, cán bộ chính quyền, đoàn thể. Ví dụ, có trường hợp hầu hết đảng viên trong chi bộ đều theo đạo Tin lành.
Đạo Công giáo, nhất là đạo Tin lành phát triển với tốc độ rất nhanh, trở thành phong trào trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đến nay chững lại sau khi các địa phương thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước. kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo. Tuy nhiên, ở các tỉnh Tây Nguyên, đến nay đạo Tin lành đã tăng gần 10 lần so với năm 1975, ở Tây Bắc, đạo Tin lành đã là một thực thể trong đồng bào Mông và lan rộng ra một số dân tộc: Dao, Tày, Nùng, Thái. …
Trước khi đạo Tin lành bình thường hóa, việc truyền bá đạo này trong các vùng dân tộc thiểu số đã có nhiều hoạt động phi pháp và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trước hết là các hoạt động truyền giáo từ bên ngoài (Philippines, Hong Kong, Thái Lan, Lào, Trung Quốc), thông qua các phương tiện như: Đài phát thanh, băng cassette, Kinh thánh – gọi là truyền đạo gián tiếp. Việc truyền đạo gián tiếp này được hỗ trợ bởi một lực lượng bên trong – được gọi là truyền đạo trực tiếp.
Đối với Tây Nguyên, đối tượng truyền đạo trực tiếp là tín đồ địa phương, truyền đạo có từ trước năm 1975. Đối với miền núi phía Bắc do Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) hỗ trợ. Ngoài ra còn có sự ủng hộ tác động của các tổ chức Tin lành nước ngoài đối với hoạt động viện trợ tại Việt Nam.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số tin theo các tôn giáo trong thời gian gần đây. Đó là đói nghèo, đời sống kinh tế khó khăn, niềm tin vào chế độ bị giảm sút khi có những biến động chính trị ở Đông Âu và sự sụp đổ của Liên Xô vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, rồi nhiều năm sau đó. Tiêu cực xã hội xảy ra ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo tôn giáo do hệ thống chính quyền cấp cơ sở còn yếu kém, chưa đồng bộ, làm suy thoái, mất uy tín của tín ngưỡng truyền thống với nhiều hủ tục lạc hậu tạo nên khoảng trống. về tâm linh …
Tóm lại, đó là tập hợp của nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, nhưng trong số đó cũng phải kể đến sự phát triển của truyền thông và môi trường toàn cầu hóa.
Trong giai đoạn đầu, việc truyền đạo trái pháp luật và một số đông đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành đã gây ra những tác động tiêu cực về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, tư tưởng như: Sản xuất đình trệ, gây mất đoàn kết trong gia đình, họ hàng, làng xóm … gây rối loạn trật tự xã hội. và an toàn. Có nơi, kẻ xấu lợi dụng tuyên truyền mê tín dị đoan để kiếm tiền, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bên cạnh những tác động tiêu cực, đạo Tin lành ở vùng đồng bằng Hmông cũng dẫn đến những tác động tích cực đến thói quen lối sống. Điều đáng quan tâm là, cùng với thời gian, nhất là khi Chính phủ có những chính sách đúng đắn đối với tôn giáo vùng đồng bào dân tộc thiểu số như: Chỉ thị số 01 / CT-TTg năm 2005 về một số nhiệm vụ đối với đạo Tin lành hay Thông báo 224 / TB-VPCP năm 2004. về công tác với Phật giáo Nam tông Khmer … tình hình tôn giáo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đi vào ổn định. Ở những nơi đạo Tin lành mới thâm nhập, tác động tiêu cực giảm hẳn, còn tác động tích cực ngày càng rõ nét, nhất là những nơi đạo Tin lành hoạt động ổn định.
Định hướng chính sách
Hoạt động tôn giáo mở rộng đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những thực trạng nổi cộm về tình hình tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đây cũng là một trong những thay đổi điển hình của tôn giáo Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa. Vì vậy, trong chính sách đối với tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số cần lưu ý những điểm sau:
1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi để Hội thánh hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
Hệ thống pháp luật là công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, giúp các cơ quan Nhà nước nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành. đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong những năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật đã từng bước cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về công tác tôn giáo, thể hiện rõ tinh thần dân chủ trong sinh hoạt tôn giáo, đáp ứng yêu cầu của Đảng. cải cách hành chính trong quản lý Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời bảo đảm sự phù hợp của pháp luật quốc tế điều chỉnh quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết hoặc tham gia.
Trên thực tế, vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, vướng mắc giữa chính quyền và các tổ chức giáo hội của một số tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong công tác quản lý, điều tiết hoạt động tôn giáo. . Trong đó có nguyên nhân cơ bản là do hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, nhất là pháp luật về đất đai, cơ sở thờ tự, hoạt động tín ngưỡng ngoài cơ sở thờ tự … chưa đầy đủ hoặc qua các thời kỳ có nhiều thay đổi, biến động. , chưa đồng bộ, thể chế hóa chậm, chưa theo kịp thực tiễn đời sống tôn giáo đang diễn ra.
Vì vậy, trong quá trình giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn lúng túng, tùy tiện, thiếu thống nhất giữa các cấp, các ngành, các địa phương; Đồng thời, có nhiều đối tượng công khai để chức sắc, giáo dân lợi dụng, vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, luật đất đai không cho phép các cơ sở tôn giáo nhận, tặng cho quyền sử dụng đất, trong khi các địa phương không có quy hoạch hoặc quy hoạch rất hạn chế về đất cho mục đích tôn giáo. , dẫn đến việc xây dựng mới các cơ sở thờ tự đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo gặp nhiều khó khăn.
Vì vậy, ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Nguyên và Tây Bắc, có tình trạng các tổ chức tôn giáo tìm cách trốn tránh pháp luật, âm thầm vận động tín đồ hiến, chuyển nhượng nhà, đất trái pháp luật để sử dụng vào mục đích tôn giáo. Vì vậy, về lâu dài, cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo, kịp thời bổ sung các chế độ chính sách phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa phương. phương pháp, làm cơ sở để tăng cường quản lý các hoạt động tôn giáo.
Ngoài ra, cần làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tín ngưỡng trong đồng bào dân tộc thiểu số theo tôn giáo và của cả hệ thống công tác tôn giáo, nhằm thống nhất nhận thức trong hệ thống chính trị. , đồng thời làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng hiểu rõ hơn các quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Tăng cường phổ biến chính sách, pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, đảm bảo tốt thông tin hai chiều, thường xuyên lắng nghe ý kiến của các chức sắc, chức việc và tín đồ trong quá trình giải quyết. những vấn đề phát sinh từ công tác tôn giáo.
2. Củng cố lòng tin và tăng cường mối quan hệ giữa chính quyền với các nhà thờ tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Thực tế nhiều năm qua, do ảnh hưởng của tư tưởng, một số chức sắc, người đứng đầu các tổ chức tôn giáo ở các tỉnh vùng cao, miền núi đã có thái độ thiếu tin tưởng vào con đường. chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; và tâm lý mặc cảm, bảo thủ, thậm chí cực đoan, chống đối, xem chính quyền thiếu thiện chí.
Ngược lại, từ cấp ủy, chính quyền địa phương, có lúc, có nơi cán bộ nhìn nhận tôn giáo thiếu thiện chí, chưa sâu sát nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của giáo hội, chức sắc, nhà tu hành; chưa lợi dụng và phát huy lòng yêu nước, ý thức chấp hành pháp luật của họ. Vì vậy, trong bối cảnh ngày càng đổi mới, dân chủ như hiện nay, từ Đảng, chính quyền các cấp cần thực sự đổi mới nhận thức, thái độ của cán bộ, đảng viên đối với đồng bào có đạo nhất là. là người đứng đầu các tổ chức tôn giáo. Cần quan tâm củng cố lòng tin và xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa chính quyền và nhà thờ, nhất là những nơi mối quan hệ còn nhiều vấn đề căng thẳng.
Trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo hàng ngày, cần phân biệt rạch ròi giữa tín ngưỡng và chính trị, giữa nhu cầu tôn giáo chính đáng của giáo dân và một số ít có ý định lợi dụng. Cần tin tưởng vào tinh thần yêu nước, ý thức chấp hành pháp luật và khả năng tham gia đóng góp của các chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo, kể cả người Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số vào sự nghiệp xây dựng. xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
3. Chăm lo đầu tư phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo tôn giáo.
Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cần tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, nhất là vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Trước mắt, cần đầu tư thỏa đáng nguồn lực để phát triển kết cấu hạ tầng, thúc đẩy sản xuất, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc về thủy lợi, đường giao thông, điện, chiếu sáng, nhà ở, nước sinh hoạt.
Huy động các dự án, chương trình mục tiêu để đầu tư phát triển sản xuất, tổ chức lại sản xuất; chỉ đạo quyết liệt, tháo gỡ khó khăn, tiếp tục giải quyết đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện chính sách thay thế đất sản xuất bằng hỗ trợ chăn nuôi, phát triển ngành nghề ở những nơi không có đất; tăng cường công tác giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng dân cư thôn, bản.
Tiếp tục rà soát, quy hoạch và có chủ trương, chính sách phát triển ngành nghề lâm nghiệp, đưa lâm nghiệp trở thành ngành chính nhằm thu hút lao động và giải quyết việc làm cho nhân dân.
Bên cạnh đó, cần hết sức quan tâm đến các vấn đề văn hóa, xã hội, nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số, vì đây cũng là điều kiện góp phần giải quyết vấn đề tôn giáo cả trước mắt cũng như tương lai. Lâu đài. Chính quyền cần phối hợp với các chức sắc tôn giáo đưa vấn đề khôi phục, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số trở thành tiêu chí.
Khuyến khích bảo tồn di sản vật thể và phi vật thể của dân tộc, từ đó khuyến khích nhân dân phát huy lòng tự hào về văn hóa truyền thống của dân tộc mình.
Vận dụng những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc vào cuộc sống; từ đó xây dựng hương ước, phát huy luật tục trong phòng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ tính cố kết cộng đồng; phát huy tinh thần dân chủ, bình đẳng, tương thân, tương ái, không ngừng củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.