“Đệ nhất danh thắng” với gần 2.000 năm Phật giáo hòa quyện vào văn hóa dân gian

Rate this post

Chùa Dâu nằm ở cuối làng Gia Phúc (xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội) không chỉ nổi tiếng với bề dày lịch sử – văn hóa mà còn có giá trị kiến ​​trúc nghệ thuật độc đáo, cổ kính. ..

Chùa Tam Quan Đầu là một gác chuông rất đẹp, hai tầng tám mái, đầu đao cong vút.  Nhiều bộ phận bằng gỗ được chạm khắc rồng, phượng, hoa lá.  Tầng trên treo quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) triều Tây Sơn.

Chùa Tam Quan Đầu là một gác chuông rất đẹp, hai tầng tám mái, đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận bằng gỗ được chạm khắc rồng, phượng, hoa lá. Tầng trên treo quả chuông đúc năm Cảnh Thịnh thứ 9 (1801) triều Tây Sơn.

Chùa Dâu không chỉ nổi tiếng với bề dày lịch sử, văn hóa, với những giá trị kiến ​​trúc nghệ thuật độc đáo, cổ kính… nơi đây còn được mệnh danh là “Đệ nhất danh lam thắng cảnh” (ngôi chùa có thắng cảnh). đẹp nhất trời Nam).

Ngôi chùa gắn liền với nhiều triều đại Vua

Chùa Dâu thờ Bà Đậu hay Đại Bồ tát Pháp Vũ nên còn gọi là chùa Dâu và còn có các tên khác là Thành Đạo Tự, Pháp Vũ Tự… Đây là một ngôi chùa cổ nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 25km. Từ trung tâm Hà Nội, đi theo quốc lộ 1A hơn 20km về phía Nam, rẽ phải vào thôn Gia Phúc (xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín) là đến chùa Dâu. Ngôi chùa gắn liền với quá trình du nhập Phật giáo vào vùng đồng bằng Bắc Bộ và hòa quyện với văn hóa dân gian bản địa.

Theo sách “Đồng chí” hiện còn lưu giữ ở Chùa Dâu thì chùa này có từ đời Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ III). Tại chùa Dâu hiện còn lưu giữ được một cuốn thư bằng đồng quý có niên đại đời Sĩ Nhiếp, đầu thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên (năm 200 – 210).

Tiền đường chùa Dâu.

Tiền đường chùa Dâu.

Sử sách ghi lại rằng, một lần Quách Thông trên đường đến làng Gia Phúc, thấy thế đất như một đóa sen nở, tỏa hương. Người ta đồn rằng năm đó, như có hào quang sáng chói, Quách Thông đã dâng lên Si Nê. Sĩ Hiệp cho rằng đó là đất Phật nên sai lập chùa cho dân trong vùng phát nguyện và đặt tên là Thanh Đạo Tự, rước Đại Thánh Hộ Pháp Vũ Đại Bồ tát về thờ, thế là. được gọi là Pháp Vũ Tự.

Chùa Dâu còn gắn liền với quá trình du nhập Phật giáo vào vùng đồng bằng Bắc Bộ và hòa quyện với văn hóa dân gian bản địa. Sau khi xây dựng chùa, Phật giáo du nhập vào Việt Nam bằng hai con đường thủy và bộ. Khi đó, đặc điểm của người Việt là trồng lúa nước và tín ngưỡng của người Việt bản địa là đa thần và chế độ mẫu hệ. Vì vậy, khi Phật giáo Ấn Độ du nhập, Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng nhưng vẫn mang bản sắc dân tộc riêng.

Chùa Dâu nằm trong hệ thống chùa thờ Tứ Pháp, ngoài thờ Phật còn thờ các thế lực siêu nhiên, linh thiêng với cư dân nông nghiệp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện (mây, mưa, sấm, chớp). ). . Vì chùa thờ Pháp Vũ nên có tên là Pháp Vũ Tự.

Một góc sân bên trong chùa Dâu.

Một góc sân bên trong chùa Dâu.

Đại đức Thích Quảng Minh – Trụ trì chùa Dâu thông tin: “Bốn vị thần mây, mưa, sấm, chớp là những vị thần được nhân dân tôn thờ, hàng năm đều có các hoạt động tín ngưỡng để cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. hình thành 4 vị thần này và xây dựng chùa Dâu, Sĩ Nhiếp cho phép rước Bồ tát Pháp Vũ thần mưa về chùa Dâu thờ tự.

Thời vua Lê Thần Tông (thế kỷ 17), chùa Dâu đã được ban tặng danh hiệu “Đệ nhất danh lam”. Các vua, chúa và con cháu họ Lê, họ Trịnh thường xuyên đến thăm và đóng góp công sức xây dựng chùa. Đến nay, chùa Dâu vẫn còn lưu giữ được hệ thống di vật và các yếu tố kiến ​​trúc quý, như hệ thống bia cổ, gạch xây thời nhà Mạc trang trí rồng, thú, cá hóa rồng, nhiều loại hoa … được làm bằng gỗ tinh xảo. những bức chạm khắc mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng.

Chùa Dâu còn một hiện vật quý là đôi rồng đá thời Trần trên bậc thềm nhà trước. Đôi rồng này đã được Bảo tàng Lịch sử Quốc gia “nhân bản” để trưng bày trong vườn bảo tàng ở Hà Nội. Theo văn bia dựng vào năm Dương Hòa thứ 5, ngôi chùa này được tôn tạo vào thời Lý (thế kỷ XI).

Theo Đại đức Thích Minh Quang, cũng tại ngôi chùa này, đã có nhiều triều đại vua chúa đến chiêm bái, cầu cho quốc thái dân an, truyền thuyết kể rằng rất linh ứng. Hàng năm có rất nhiều sĩ tử đến đây để cầu mong được đỗ đạt khoa bảng, công danh rạng rỡ, sự nghiệp hanh thông.

Còn những người nông dân chất phác quanh vùng đến chùa Dâu để cầu sức khỏe, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu. Chùa Dâu được nhiều đời vua, chúa tu bổ, tôn tạo, đặc biệt đến thời Hậu Lê, chùa được trùng tu với quy mô lớn. Lần trùng tu, tôn tạo gần đây nhất vào năm 2021.

Cạnh chùa Dâu có chùa Am, được xây dựng sau này, người dân đem tượng từ ngôi miếu nhỏ hư hỏng về thờ. Ở chùa này có một pho tượng đá đặc biệt – tượng Quan Âm Lục Chi nhưng lại là một người phụ nữ mang nét thuần Việt.

Kiến trúc điêu khắc tinh xảo được thể hiện trên các cột gỗ phía sau Thượng điện.

Kiến trúc điêu khắc tinh xảo được thể hiện trên các cột gỗ phía sau Thượng điện.

Theo dân gian, đây là pho tượng được tạo dựng theo người thật để tri ân bà Ngô Thị Ngọc Nguyên, theo sử sách thì bà là người trong cung vua Lê – chúa Trịnh có công xây dựng chùa. Tuy là tượng Phật Bà Quan Âm sáu tay, ba tư thế (tượng trưng cho thiên thời – địa lợi – nhân hòa) nhưng ý nghĩa như một bức tượng tri ân. Với bề dày lịch sử và còn lưu giữ nhiều tầng văn hóa, kiến ​​trúc, nghệ thuật, chùa Dâu đã được xếp hạng di tích lịch sử nghệ thuật hạng A từ năm 1964.

Tiến sĩ Nguyễn Anh Thư, Khoa Di sản Văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội – người đã nhiều lần dẫn sinh viên và học giả nước ngoài đến thăm chùa Dâu, chia sẻ: “Nhìn thấy những hình chạm khắc rồng, phượng, hoa lá tinh xảo trên các ngọn, kèo, chạm của Những cột gỗ mộc mạc mát rượi, từ gác chuông cao phóng tầm mắt ra xa thấy khung cảnh làng quê yên bình thực sự là những trải nghiệm đáng nhớ. “Tìm tòi, mổ xẻ những bức chạm khắc mang đậm phong cách nghệ thuật của từng thời kỳ lịch sử cũng là một niềm đam mê. của các nhà bảo tồn và tất cả những người yêu nghệ thuật truyền thống.

Ngôi chùa có kiến ​​trúc và cảnh quan đẹp nhất miền Bắc

Tọa lạc trên khu đất rộng hơn 1 ha, chùa Dâu được bao bọc bởi những hàng cây cổ thụ tỏa bóng mát. Vào thế kỷ XVII, thời vua Lê Thần Tông, chùa Dâu được phong là “Đệ nhất danh lam” (một trong những ngôi chùa có phong cảnh đẹp nhất trời Nam). Năm 1964, chùa Dâu được xếp hạng di tích lịch sử nghệ thuật cấp A.

Chùa Dâu có kiến ​​trúc theo kiểu “nội công, ngoại quốc”, “trước Phật, sau thánh” theo kết cấu hệ thống tứ pháp của Phật giáo. Kiến trúc nghệ thuật của chùa có nhiều nét độc đáo, tiêu biểu cho nền nghệ thuật dân gian phát triển rực rỡ ở thế kỷ XVII. Chính điện có từ thời Lê, mái lợp ngói mũi hài, cột và xà đều chạm rồng; Các bệ đá chạm hoa sen, cửa tám cánh đều chạm tứ linh, tứ quý, sơn son thếp vàng, mạ vàng …

Không chỉ nổi tiếng về sự cổ kính mà chùa Dâu còn được nhiều người biết đến là nơi cất xá lị toàn thân, hay tượng thờ hai vị thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường đắc đạo.  Trong ảnh là thi thể thiền sư Vũ Khắc Minh trong tư thế ngồi thiền.

Không chỉ nổi tiếng về sự cổ kính mà chùa Dâu còn được nhiều người biết đến là nơi cất xá lị toàn thân, hay tượng thờ hai vị thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường đắc đạo. Trong ảnh là thi thể thiền sư Vũ Khắc Minh trong tư thế ngồi thiền.

Côn trùng đe dọa hai pho tượng thiền sư chùa Dâu

Chùa Dâu hiện nay còn lưu giữ được hệ thống di vật và các yếu tố kiến ​​trúc quý, như bia cổ, gạch thời Mạc trang trí rồng, thú, cá hóa rồng, nhiều loại hoa lá … Đặc sắc về nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc là những tác phẩm chạm khắc gỗ tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Lê Trung Hưng và chắt lọc những tinh hoa hàng nghìn năm của những người thợ Việt Nam.

Chùa Dâu còn một hiện vật quý là đôi rồng đá thời Trần trên bậc thềm nhà trước. Đôi rồng này đã được Bảo tàng Lịch sử Quốc gia “nhân bản” để trưng bày trong vườn bảo tàng ở Hà Nội. Đặc biệt, trong chùa còn có hai pho tượng thi hài của hai thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường trụ trì chùa vào khoảng thế kỷ XVII.

Thi hài thiền sư Vũ Khắc Trường.

Thi hài thiền sư Vũ Khắc Trường.

Ông Vũ Văn Thủy (84 tuổi) ở thôn Gia Phúc cho biết, từ nhỏ ông thường được bố mẹ đưa lên chùa Dâu để tham quan, vãn cảnh. Ông rất ấn tượng với kiến ​​trúc của ngôi chùa này, đặc biệt là những nét chạm khắc tinh xảo của rồng, phượng, hoa lá trên các ngọn, vì kèo,… Cũng như ông Thủy, nhiều người dân trong vùng và khách phương xa. Khi đến chùa Dâu, tất cả đều mê mẩn với không gian kiến ​​trúc độc đáo của chùa Dâu …

“Đặc biệt, sau khi chiêm bái, dạo quanh chùa Dâu, dưới những tán cây xanh mát thường mang đến cho con người cảm giác bình yên, thanh tịnh. Chính vì vậy mà từ bao đời nay, người dân địa phương luôn gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa khi nói về chùa Dâu ”, Anh Thủy chia sẻ.

Leave a Comment