Hải chiến Việt Nam (Câu chuyện lịch sử) (Phần 25)

Rate this post

Kỳ 25.

XII. VAI TRÒ CỦA CON DẤU VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ TỔ QUỐC

Lính thủy đánh bộ giải phóng dân tộc khỏi ách phong kiến ​​phương Bắc

Sau nhiều lần bị quân dân Âu Lạc đánh bại, khoảng năm 179 TCN, Triệu Đà đã dùng thủ đoạn xảo quyệt kết hợp với quân đội để chinh phạt. Đến năm 111 TCN, nhà Hán xâm chiếm Nam Việt và Âu Lạc, sau đó là các triều đại Ngô, Tấn, Lương, Tùy, Đường và sau đó cai trị nước ta trong 1000 năm. 1000 năm mất nước, mất độc lập tự chủ là 1000 năm nhân dân ta bị giết hại, áp bức, bóc lột đến tận xương tủy. Nền kinh tế bị đình trệ và thiệt hại nặng nề. Bọn thống trị nước ngoài ra sức thực hiện chính sách đồng hoá văn hoá hòng tiêu diệt văn hoá dân tộc ta. Bị bóc lột dã man về kinh tế, bị áp bức nặng nề về tinh thần là những hậu quả của một dân tộc đã mất. Đánh đuổi bọn phong kiến ​​ngoại bang, giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp bách nhất của lịch sử Việt Nam thời kỳ đó. Giai cấp phong kiến ​​Việt Nam là giai cấp tiên tiến lúc bấy giờ đảm nhận trọng trách tổ chức và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

ch1viejt-vuong-1664703372.jpg
Việt vương Triệu Quang Phục – một vị vua hùng mạnh trong lịch sử Việt Nam.
Ảnh: Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long – Hà Nội.

Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, những người lãnh đạo phong trào lúc bấy giờ hiểu rằng cần phải có lực lượng vũ trang xung kích để đập tan bộ máy bạo tàn và ách thống trị của kẻ thù. Kinh nghiệm thất bại của Hai Bà Trưng trong những năm 40 đã cho thấy rõ trong khi xây dựng lực lượng vũ trang, cần chú ý xây dựng cả lực lượng bộ binh và thủy binh do điều kiện địa lý của nước ta.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Lương xâm lược, tháng 10 năm 546, sau khi thất thủ ở thành Tô Lịch và thành Gia Ninh, được nhân dân ủng hộ, Lý Nam Đế kéo quân đến vùng hồ Diên Triết (Đầm. ). Vạc, Vĩnh Phúc) và ra sức xây dựng lực lượng thủy quân để mong phản công giành lại độc lập cho Tổ quốc. Lý Nam Đế hạ lệnh đóng rất nhiều thuyền chiến đậu trên mặt hồ Diên Triết khiến quân Lương rất sợ hãi, dao động.

Sau khi Lý Nam Đế mất, giao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Ông dẫn quân rút về lập căn cứ ở Dạ Trạch (Khoái Châu, Hải Hưng) chờ thời cơ đánh giặc. Đầm Dạ Trạch là một vùng đầm lầy rất rộng, cây cối um tùm, ở giữa là bãi nổi có thể sinh sống được, đường ra bãi biển rất kín đáo, bạn chỉ có thể dùng ca nô lướt trên cỏ nước. Được chứ. Triệu Quang Phục dùng thủy binh tiến hành du kích, tiêu hao sinh lực địch, bồi dưỡng nghĩa quân ngày càng mạnh, tích lũy được nhiều lương thực, bảo đảm cho cuộc chiến đấu lâu dài. Năm 550 nhà Lương loạn lớn, tướng giặc là Trần Bá Tiêu kéo quân về nước, chỉ còn Dương Sán ở lại. Nắm bắt thời cơ đó, Triệu Quang Phục phản công, giết tướng Dương Sản, chiếm Long Biên, giành độc lập.

Tiếp theo vào năm 772, Mai Thúc Loan nổi dậy chống lại sự thống trị của nhà Đường ở Hà Tĩnh. Ông đã lợi dụng địa thế của vùng Sa Nam để xây dựng căn cứ đánh giặc. Cũng giống như căn cứ của Triệu Quang Phục, căn cứ của Mai Thúc Loan, trung tâm là thành Vạn An nổi tiếng, cũng là căn cứ bộ binh và căn cứ thủy quân do lợi dụng địa hình đồi núi để xây dựng. Dọc theo bờ sông Lam ở một khúc cua sâu, nghĩa quân đã đắp thành lũy dài 1000m, đó là thành Vạn An với cồn Huỳnh Sơn làm chỗ dựa, bên trong núi là một thung lũng rất rộng làm nơi chứa lương thực và vũ khí. . Bên ngoài sườn núi là một trại bộ binh. Xung quanh căn cứ là sông Lam, hào tự nhiên bảo vệ kinh thành và cũng là khu vực hành quân của thủy quân. Trong lực lượng vũ trang Mai Thúc Loan đã xây dựng bộ binh, đồng thời ra sức xây dựng thủy quân để vào chiến đấu.

Nhìn lại quá trình xây dựng lực lượng tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, các anh hùng cứu nước, xây dựng bộ binh đã chú ý xây dựng lực lượng hải quân. Trong khi xây dựng căn cứ, họ thường dựa vào địa hình đồi núi, nhưng kết hợp xây dựng căn cứ lục quân và căn cứ hải quân, kế thừa truyền thống Cổ Loa.

Vai trò, tác dụng của bộ đội hải quân trong thời kỳ này do tương quan lực lượng không thuận lợi cho ta nên thường áp dụng cách đánh du kích để tiêu hao sinh lực địch, góp phần chuyển hóa tương quan lực lượng, chờ thời cơ khôi phục. . phản công như thủy quân của Triệu Quang Phục và đã thành công. Nhìn chung, đây chỉ là những mầm mống đầu tiên và là sản phẩm của các cuộc nổi dậy nên khi khởi nghĩa thất bại, các lực lượng vũ trang tan rã. Nhưng dù thất bại tạm thời, thì các cuộc khởi nghĩa càng hun đúc thêm ý chí dân tộc trưởng thành, để lại những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang cho cuộc đấu tranh tiếp theo. Thủy quân thời Âu Lạc, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan là tiền đề cơ bản cho thủy quân Bạch Đằng năm 399. Thủy quân ở hồ Diên Triết, đầm Dạ Trạch, và căn cứ Vạn An là những cuộc biểu tình chung. luyện tiến đến trận thủy chiến Bạch Đằng lừng lẫy. Nếu không có thủy quân của các triều đại Văn Lang, Âu Lạc, Hồ Diên Triết, Dạ Trạch, Vạn An thì không có đại thắng Bạch Đằng. Đó là ý nghĩa và tác dụng to lớn trong quá trình phát triển của hải quân ta cùng với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc.

Rõ ràng, cuộc đấu tranh ngoan cường của nhân dân ta suốt 1.000 năm là động lực mạnh mẽ đưa lịch sử dân tộc tiến lên dù bị giặc ngoại xâm áp bức, kìm hãm. Đến thế kỷ thứ 10, xã hội nước ta đã trải qua nhiều biến động lớn. Nghề đồ sắt phát triển mạnh khiến kinh tế phong kiến ​​nội tộc dù bị phong kiến ​​ngoại bang kìm hãm vẫn phát triển rực rỡ. Đó là cơ sở vững chắc để giai cấp phong kiến ​​Việt Nam trưởng thành về ý thức chính trị và họ đòi lật đổ ách thống trị của phong kiến ​​nước ngoài, xác lập ách thống trị của chế độ phong kiến ​​Việt Nam. Lợi ích của giai cấp phong kiến ​​lúc bấy giờ song hành với lợi ích dân tộc và họ sẽ là giai cấp gánh vác sứ mệnh lịch sử đó. Âm mưu đồng hoá của kẻ thù hoàn toàn thất bại, tinh hoa văn hoá của dân tộc được bảo tồn và phát triển. Trong quá trình đấu tranh của dân tộc, dân tộc ta đã lớn mạnh về mọi mặt cả về chính trị, văn hóa và quân sự. Sức sống mãnh liệt của dân tộc ta là ở đó. Sức mạnh đó đã tạo tiền đề vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh giành độc lập ở thế kỷ X.

Trong những năm 907-960, đế quốc nhà Đường suy yếu, nội tình Trung Quốc bị chia cắt năm đời, mười nước. Chớp lấy thời cơ khách quan thuận lợi, nhân dân ta đã đứng lên tự quyết định vận mệnh của mình. Khúc Thừa Dụ cùng con là Khúc Hạo khởi nghĩa xây dựng chính quyền tự chủ, cơ bản chấm dứt 1000 năm phong kiến ​​phương Bắc, đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc. Năm 930, đất nước lại rơi vào tay giặc Nam Hán. Người tiếp tục sự nghiệp giành độc lập là Dương Đình Nghệ, ông đã phản công quân Nam Hán và một năm sau giành lại quyền tự chủ cho đất nước. Nhưng sáu năm sau, tức năm 937, Dương Đình Nghệ bị một tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết để đoạt chức thống binh. Lo sợ bị trừng phạt, Kiều Công Tiễn sai người sang Nam Hán cầu cứu để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của mình.

Không từ bỏ tham vọng xâm lược nước ta, cuối năm 938, vua Nam Hán phong con là Văn Vương Hoằng Thao làm Giao Vương, sai thủy quân sang xâm lược. Mặt khác, vua Nam Hán đích thân dẫn quân đóng ở Hải Môn (huyện Bách Bạch, Quảng Đông) sẵn sàng hỗ trợ Hoàng Thao. Bên trong thì nội loạn, bên ngoài thì giặc sắp tràn qua biên giới, nền độc lập dân tộc vừa giành được đã bị uy hiếp nghiêm trọng.

(Còn nữa)

CVL

Leave a Comment