Tại sao lạm phát ở Trung Quốc và Nhật Bản lại thấp hơn ở Mỹ và Châu Âu?

Rate this post

Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, gián đoạn chuỗi cung ứng, thiếu lao động và xung đột Nga-Ukraine đã đẩy giá năng lượng và hàng hóa cơ bản lên cao, khiến lạm phát leo thang trong vài tháng qua. gần đây. Các ngân hàng trung ương trên thế giới đang bước vào cuộc đua tăng lãi suất mạnh nhất trong nhiều thập kỷ để “hãm phanh” lạm phát. Tuy nhiên, các nước châu Á dường như có khả năng chống chọi với lạm phát cao hơn. Bằng chứng là tỷ lệ lạm phát ở hai nền kinh tế lớn của khu vực là Trung Quốc và Nhật Bản vẫn ở mức thấp so với Mỹ hay châu Âu.

Sự khác biệt về quản trị, đặc điểm kinh tế và CPI. phép tính

Tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc gần như trái ngược hoàn toàn so với nhiều nền kinh tế phát triển, tạo dư địa cho nước này nới lỏng chính sách tiền tệ hơn nữa trong bối cảnh Mỹ và các nước châu Âu đồng loạt tăng lãi suất. để kiềm chế lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở Trung Quốc trong tháng 5 tăng 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Mỹ cùng thời điểm là 8,6%, ở các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu (eurozone) là 8,1%. Riêng tại Anh, lạm phát trong tháng 4 đã tăng vọt lên 9%.

Đây không phải là năm đầu tiên Trung Quốc duy trì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở mức thấp. Theo các chuyên gia nước này, Trung Quốc bắt đầu bước vào thời kỳ lạm phát thấp sau năm 1997. Sau đó, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lạm phát của nước này đã có lúc lên tới 8,2%. vào năm 2008. Tuy nhiên, hơn một thập kỷ tiếp theo là thời kỳ lạm phát thấp, thậm chí giảm phát. Ở một mức độ nào đó, có thể hiểu đây là đặc điểm và cách thức vận hành của nền kinh tế Trung Quốc.

Có thể nói, tỷ lệ lạm phát thấp của Trung Quốc là do sự khác biệt trong điều hành, cơ cấu kinh tế và cách tính CPI của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới so với các nước phương Tây.

Trước hết, theo các quan chức và học giả Trung Quốc, có sự khác biệt trong cách thức triển khai và vận hành các gói kích thích kinh tế giữa Trung Quốc và phương Tây. Mỹ và nhiều nước châu Âu tung ra các gói kích cầu cực lớn, với tốc độ in tiền chưa từng có, nhằm vực dậy nền kinh tế bị tàn phá bởi đại dịch. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, bảng cân đối kế toán của Cục Dự trữ Liên bang (FED) đã tăng gấp đôi lên 8,9 nghìn tỷ USD chỉ trong hai năm qua. Ngược lại, Trung Quốc cẩn thận hơn trong việc kích thích nền kinh tế, không nới lỏng tài khóa và tiền tệ một cách ồ ạt.

Sự khác biệt trong cách tính CPI của Trung Quốc cũng là một yếu tố. Sự phân loại trong rổ tính CPI giữa Mỹ và Trung Quốc gần như giống nhau, nhưng tỷ lệ là khác nhau. Tỷ trọng của các mặt hàng thực phẩm trong CPI của Trung Quốc cao hơn của Mỹ, trong khi tỷ trọng của các mặt hàng liên quan đến năng lượng thấp hơn, dẫn đến sự biến động của giá thực phẩm quyết định xu hướng. CPI ở Trung Quốc, chứ không phải giá năng lượng. Thực tế, từ đầu năm đến nay, Trung Quốc cũng đã 10 lần tăng giá xăng dầu.

Nói cách khác, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới chú trọng nhiều hơn vào thực phẩm và quần áo, phù hợp với thực tế là Trung Quốc vẫn là một quốc gia có thu nhập trung bình. Ngược lại, rổ tính CPI tại Mỹ phân bổ tỷ trọng lớn hơn cho lưu trú và giao thông – hai phân khúc dịch vụ chịu tác động lớn từ giá nhiên liệu cao và các điều kiện chính sách tiền tệ trong nước.

Ngoài ra, nền kinh tế Mỹ đang phụ thuộc nhiều vào hàng tiêu dùng nhập khẩu. Trung Quốc là công xưởng của thế giới, với khả năng sản xuất vượt trội, mang lại cho các nhà khai thác nhiều cơ hội hơn để ứng phó hiệu quả hơn với giá cả hàng hóa toàn cầu tăng cao.

Theo các chuyên gia Trung Quốc, hiện tại, sở dĩ giá cả nước này giữ ổn định là do được hưởng lợi từ chính sách chủ động duy trì nguồn cung, bình ổn giá và kiểm soát kinh tế vĩ mô. Trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ còn phải đối mặt với áp lực lạm phát từ bên ngoài.

Tương tự ở Nhật Bản, lạm phát cao cũng dừng ở mức 2,5% vào tháng 4 năm 2022. Mặc dù đây là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ năm ngoái trong 8 năm qua, nhưng vẫn là mức cao hơn nhiều so với các nước khác.

Trái ngược với động thái tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát của các ngân hàng trung ương, Nhật Bản tự tin sẽ duy trì chính sách tiền tệ siêu nới lỏng với lãi suất siêu thấp. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) cho biết, Nhật Bản không rơi vào tình trạng buộc phải thắt chặt tiền tệ. Ưu tiên đầu tiên sẽ là kiên trì với chính sách nới lỏng tiền tệ tích cực hiện tại và do đó hỗ trợ vững chắc cho hoạt động kinh tế.

Sự phân kỳ chính sách này của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản dẫn đến sự mất giá của đồng Yên, do đó có thể kích thích lạm phát. Trong những năm gần đây, Nhật Bản luôn phải chịu áp lực vì hiện tượng giảm phát của nền kinh tế và dường như Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đang tìm kiếm một chỉ báo lạm phát. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ lạm phát thấp ở Nhật Bản trong thời gian gần đây.

Ngoài ra, khác với Mỹ và châu Âu, do không quá phụ thuộc vào quan hệ kinh tế với Nga nên các biện pháp trừng phạt qua lại với Nga không tác động lớn đến chỉ số tiêu dùng nên rất dễ kiểm soát. lạm phát có thể được kiểm soát.

Lạm phát ở Mỹ cao nhất trong 40 năm

VOV.VN – Giá xăng dầu, thực phẩm và các mặt hàng khác của Mỹ đã tăng đáng kể trong tháng 5, đẩy lạm phát của nền kinh tế số một thế giới lên mức cao nhất trong 40 năm.

Vấn đề chính của Trung Quốc không phải là lạm phát, mà là “ba sức ép” của nền kinh tế

Cựu Bộ trưởng Tài chính Trung Quốc Lou Jiwei mới đây cho rằng lạm phát không phải là mối quan tâm chính đối với Trung Quốc, thay vào đó, nước này đang phải đối mặt với “ba sức ép”. – cụ thể là nhu cầu giảm, cú sốc nguồn cung và kỳ vọng yếu.

Ba áp lực này không phải là mới ở Trung Quốc. Đây vốn là kết luận của Hội nghị Kinh tế Trung ương của nước này được tổ chức vào cuối năm 2021 – cuộc họp thường niên nhằm đề ra các mục tiêu hoạch định chính sách kinh tế của chính phủ Trung Quốc cho năm tới.

Trong 3 áp lực, sức cầu thu hẹp được đặt lên hàng đầu và chủ yếu thể hiện ở việc tiêu dùng tư nhân (dân cư và xã hội) giảm, trong đó thị trường bất động sản – nhân tố quan trọng và trụ cột. của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới – vẫn đang suy yếu sau khi chính phủ thực hiện các chính sách hạn chế việc các nhà phát triển bất động sản vay nợ quá mức vào năm ngoái.

Cú sốc nguồn cung chủ yếu thể hiện ở tình trạng thiếu than, thiếu điện trầm trọng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu và các hạn chế liên quan đến mục tiêu giảm các-bon trong nước, cũng như ảnh hưởng của dịch bệnh. phục hồi sản xuất của các doanh nghiệp, đặc biệt là trong các ngành du lịch, khách sạn, ăn uống và chuỗi cung ứng.

Cuối cùng, kỳ vọng yếu đi. Điều này có thể bắt nguồn từ một loạt điều chỉnh chính sách của Chính phủ Trung Quốc trong năm 2021 liên quan đến bất động sản, internet, giáo dục ngoài nhà trường … và kỳ vọng của các doanh nghiệp tư nhân không mấy lạc quan.

Bên cạnh đó, thời gian gần đây, tình hình dịch bệnh nghiêm trọng ở Thượng Hải và một số nơi tiếp tục gây tác động tiêu cực hơn đến khu vực kinh tế tư nhân. Trong khi đó, hầu hết các vấn đề sinh kế của người dân đều liên quan mật thiết đến sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân và nhỏ. Một số chuyên gia cho rằng, trong hơn 40 năm cải cách và mở cửa ở Trung Quốc, khi các doanh nghiệp tư nhân phát triển thuận lợi, thì công ăn việc làm sẽ đầy đủ và nền kinh tế quốc dân sẽ phát triển tốt.

Đối với Trung Quốc, duy trì ổn định kinh tế xã hội luôn là điều tối quan trọng. Trong một báo cáo của chính phủ do Thủ tướng Lý Khắc Cường trình bày trước Quốc hội vào đầu năm nay, từ “ổn định” đã được nhắc đến hơn 80 lần. Thời gian gần đây, mặc dù vẫn quyết tâm thực hiện chính sách “Zero Covid”, nhưng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình luôn yêu cầu đảm bảo phát triển kinh tế – xã hội ổn định. Nếu cả ba áp lực cầu, cung và kỳ vọng không được giải tỏa, nền kinh tế Trung Quốc sẽ khó đạt được mục tiêu đề ra, trong đó quan trọng nhất là khó duy trì sự ổn định trước những biến cố bất lợi. ảnh hưởng từ cả môi trường bên trong và bên ngoài.

Nhật Bản cần duy trì chính sách tiền tệ siêu lỏng lẻo và đạt được mức lạm phát cần thiết

Để duy trì ổn định kinh tế, động thái mới nhất của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là tiếp tục duy trì chính sách lãi suất “siêu thấp” ở mức âm 0,1% – mức lãi suất đã được áp dụng từ đầu năm. Năm 2016 cho đến nay, trong khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) thông báo nâng lãi suất cơ bản thêm 0,75% vào ngày 15 tháng 6. Sự chênh lệch chính sách này đã đẩy đồng yên xuống mức thấp nhất so với đồng USD trong 24 năm qua.

Về lý thuyết, việc phá giá đồng nội tệ gây ra những tác động tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế. Một mặt, nó sẽ làm tăng giá thực phẩm và năng lượng, tác động tiêu cực đến chi tiêu của các hộ gia đình. Mặt khác, góp phần tạo ra lợi nhuận từ thị trường nước ngoài của các công ty xuất khẩu. Ngoài ra, đồng yên rẻ cũng hỗ trợ đắc lực cho sự phục hồi của ngành du lịch Nhật Bản, nhất là khi nước này đang chuẩn bị các bước để mở cửa hoàn toàn với du khách nước ngoài.

Hiện một số doanh nghiệp tại Nhật Bản đã tăng giá bán sản phẩm, và người tiêu dùng bắt đầu cảm nhận rõ điều này. Để đối phó với tác động của giá cả tăng cao, Chính phủ Nhật Bản đã tung ra một gói kích thích kinh tế bổ sung, trị giá 13,2 nghìn tỷ Yên (hơn 100 tỷ USD). Gói kích cầu này chủ yếu là hỗ trợ tiền mặt trực tiếp cho người dân, ứng phó với giá dầu thô tăng, nâng trợ cấp cho các nhà nhập khẩu và phân phối xăng dầu lên 35 yên / lít xăng và duy trì gói kích cầu này cũng cho vay lãi suất thấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ , mục tiêu là tái cơ cấu doanh nghiệp, theo hướng tăng lương cho người lao động.

Trước mắt, Nhật Bản sẽ duy trì chính sách tiền tệ siêu lỏng lẻo để đồng yên trở nên yếu đi, đồng thời đưa ra các gói kích thích kinh tế bổ sung nhằm giúp nền kinh tế đạt được lạm phát ở mức cần thiết.

Trong thời gian tới, Chính phủ Nhật Bản sẽ phải theo dõi sát sao những biến động của các chỉ số kinh tế cũng như động thái của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ để có thể đưa ra các chính sách ứng phó kịp thời, không để đồng yên mất giá một cách hỗn loạn. , đẩy nền kinh tế Nhật Bản một lần nữa rơi vào suy thoái.

Nhiều nhà kinh tế vẫn tin rằng châu Á sẽ có thể kiểm soát được lạm phát trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng tiêu dùng ở nhiều nước trong khu vực vẫn còn yếu. Những cú sốc về nguồn cung, hay chi phí vận chuyển tăng vọt tiếp tục ám ảnh hầu hết các nền kinh tế phát triển ở phương Tây, nhưng ít ảnh hưởng đến châu Á. Điều đó có nghĩa là các nước châu Á có thể không phải chịu nhiều áp lực thắt chặt chính sách tiền tệ như một số nước phương Tây. Tuy nhiên, hầu hết các nước vẫn sẽ tăng cường cảnh giác trước nguy cơ lạm phát do các yếu tố gây mất ổn định như xung đột, dịch bệnh… vẫn chưa được kiểm soát.

Leave a Comment