Thủy quân Tây Sơn đã khiến nhà Thanh và phương Tây “khiếp sợ” như thế nào?

Rate this post

Tư duy xây dựng thủy quân của vua Nguyễn Huệ

Nếu như các vị hoàng đế tiền nhiệm của Việt Nam chỉ chú trọng xây dựng quân đội thì Nguyễn Huệ lại lấy thủy quân làm xương sống.

Từ năm 1775, đại bộ phận quân Tây Sơn đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, được xây dựng theo hướng thủy hợp, tổ chức chặt chẽ, phù hợp với yêu cầu của các cuộc hành quân tiến công, bao gồm cả thủy binh và công binh. bộ. Thủy quân lục chiến là binh chủng thực chiến và được phân chia theo chức năng, thành 4 loại lực lượng: tác chiến trên biển (gồm thuyền hiệu mang nhiều đại bác, chở nhiều quân), tác chiến sông – biển (kể cả tác chiến trên biển) thuyền hạng trung. , gắn đại bác), tuần tiễu (trang bị trên du thuyền) chuyên tuần tiễu, cắt đứt giao thông đường thủy, tiên phong (chèo thuyền nhẹ) chuyên đi đầu trong thủy chiến.

Tồn tại chưa đầy 3 thập kỷ, nhưng triều đại Tây Sơn đã hai lần đánh tan quân ngoại xâm là quân Xiêm và quân Thanh bằng những chiến dịch quân sự chớp nhoáng.

Theo các tài liệu lịch sử, thủy quân Tây Sơn có hơn 600 thuyền chiến, hơn 5 vạn binh lính và nhiều loại thuyền khác nhau. Thuyền lớn để chở quân, lương thực, hàng hóa. Thuyền cũng được gắn đại bác để đánh chìm thuyền địch.

Lúc bấy giờ, thủy quân Tây Sơn do Đô đốc Võ Văn Dũng chỉ huy có 3 loại chiến thuyền được trang bị nhiều đại bác, gồm: Chiếc lớn nhất có 9 chiếc, mỗi chiếc có 66 khẩu đại bác và 700 thủy binh; loại thứ hai có 5 tàu, mỗi tàu có 50 khẩu đại bác và 600 thủy thủ; loại thứ ba có 40 tàu, mỗi tàu có 16 khẩu đại bác và 200 thủy thủ. Và nhiều loại tàu chiến nhỏ khác nhưng được đánh giá là rất nguy hiểm. Vì nhỏ dễ xoay xở, nếu ở sông sẽ chèo bằng chèo, đủ số lượng thủy thủ thay nhau chèo; Vì vậy, cả hai trận thủy chiến trên sông đều phát huy tác dụng, vừa vận chuyển binh lính vừa đánh địch từ xa.

Chaigneau và Barizy, những sĩ quan Pháp trực tiếp hỗ trợ Nguyễn Ánh đối mặt với thủy quân Tây Sơn, đã phải thừa nhận sự hiện hữu ngoài sức tưởng tượng khi chứng kiến ​​các chiến thuyền Tây Sơn. Chaigneau là người chỉ huy chiến thuyền kiểu Âu lớn nhất trong thủy quân của Nguyễn Ánh lúc bấy giờ, nhưng chỉ có 32 khẩu đại bác và rất ngạc nhiên khi thấy chiến hạm Tây Sơn trang bị tới 50-60 khẩu đại bác. kích thước lớn.

“Số lượng đại bác và binh lính trên các chiến hạm Tây Sơn tương đương với các chiến hạm lớn nhất châu Âu lúc bấy giờ. Các chiến thuyền này vượt xa các loại chiến thuyền mà Pháp và Bồ Đào Nha cung cấp cho Nguyễn Vương (tức Nguyễn Ánh)”, Barizy kể lại .

Kỹ thuật đóng tàu đỉnh cao chạm phải đá ngầm không thể chìm

Nhà Tây Sơn kế thừa công nghệ đóng tàu của Đàng Trong và đầu tư phát triển đội tàu riêng khá dễ dàng. Lực lượng của họ quả thực rất đáng kể khi vừa sử dụng tàu Hải Tặc, vừa nâng cấp và triển khai đóng mới. Đây là một chiến lược khôn ngoan vì các tàu cướp biển sẽ có đủ số lượng, và việc đầu tư nâng cấp diễn ra sau khi hạm đội được thành lập sẽ dễ dàng hơn là xây mới từ đầu.

Cuối thế kỷ XVIII, John Barrow là người Anh sang nước ta vào thời Tây Sơn đóng nhiều tàu nhất (1792-1793) đã nhận xét: “Có một nghề đặc biệt trong số các nghề mà người Nam Kỳ hiện nay. làm được. tự hào, đó là đóng thuyền đi biển… Thuyền đi biển của họ tuy không nhanh, nhưng rất an toàn, bên trong chia thành nhiều ngăn, loại này rất chắc, có thể va vào đá ngầm mà không chìm, vì nước chỉ vào một mà thôi. khoang. Hiện nay ở Anh, cách làm đó đã được bắt chước để đóng tàu. “

Và sau khi nghiên cứu địa hình, các hạm đội Tây Sơn được đóng với nhiều kích cỡ khác nhau như thuyền lớn để chở quân, lương thực, vật liệu và các loại thuyền nhỏ, linh hoạt dùng để bao vây, tấn công và xung phong. Khi bỏ chạy có thể lan ra hàng nghìn hướng, khó bị tổn thương, khi tập trung thì lên đến hàng nghìn chiếc với sức ảnh hưởng rất lớn. Đó cũng là lý do vì sao thủy quân thời Tây Sơn nổi tiếng, phù hợp với phong cách dùng binh nhanh, bất ngờ, áp đảo của Nguyễn Huệ, tiến và lùi rất nhanh.

Như trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí có đề cập đến việc Quang Trung “đóng thuyền lớn đi biển”, có thể chở được “voi” để uy hiếp nhà Thanh, thậm chí còn mô tả thuyền “Đại Hiệu” như một pháo đài di động, trên “lập lán, đặt súng lớn”.

Có thể nói, việc nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn sau này đóng được nhiều loại thuyền, trong đó có tàu chiến, thể hiện truyền thống, khả năng vươn khơi, chinh phục và làm chủ biển cả của người Việt. nước ngưỡng mộ.

Leave a Comment