(TN&MT) – Những tưởng nghề khai thác hải sản đã trở thành “dĩ vãng” khi các loài tôm cua cá ven bờ ngày càng cạn kiệt do con người khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường biển, nhưng tại một số làng chài ven biển tỉnh Quảng, ngư dân vẫn miệt mài làm nghề. để kiếm sống, giữ vững truyền thống của tổ tiên.
Kéo cá vào bờ
Sáng sớm, trời còn chưa trong xanh, bãi biển Mỹ Khê đã nhộn nhịp tiếng gọi nhau với nhịp sống hối hả của ngư dân. Lão ngư Phạm Cơ (thôn Kỳ Xuyên, xã Tịnh Kỳ, TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) năm nay đã 65 tuổi, nhưng vẫn kiên cường như thanh niên, thoăn thoắt giăng lưới trên thúng chai. thả biển. Lưới dùng trong nghề đánh bắt hải sản dài khoảng 3.000m, mắt lưới khá nhỏ, chỉ nhỉnh hơn đầu đũa một chút, được thả cách bờ ra biển khoảng 1,5km theo hình bán nguyệt sao cho gần bằng. bờ, khoảng cách giữa 2 lưới thường từ 200 – 300m. Đây là bước quan trọng nhất trong quá trình câu cá.
Xa xa trên sóng bạc, cá trúng lưới vọt lên không trung, xoay tròn một vòng rồi rơi xuống biển, chung quanh là những làn sóng lung linh của lưới. Khi lưới càng gần bờ, cá nhảy lên càng nhiều. Trên bờ, hơn chục người cả nam và nữ chia thành hai tốp đứng hai bên, kéo về và dần dần áp sát nhau khi lưới được đưa vào gần bờ.
2 giờ sau khi thả lưới, mẻ lưới đầu tiên đã về trên bãi cát trắng. Trong lưới có khoảng 20kg cá các loại như: cá mè, cá mè, cá mè, cá đối, cá anh vũ, cá cơm, mực, tôm, cua, ghẹ… Chị em nhanh chóng phân loại, cân, cho vào rổ; Những người đàn ông tiếp tục thu dọn lưới và bơi thúng cho mẻ tiếp theo. Những đứa trẻ vùng biển cũng hồn nhiên vớt cá con thả về biển mà không để ý đến vẻ mặt trầm ngâm của bố mẹ trong những ngày tồi tệ. Họ không biết rằng cuộc sống mưu sinh của ông bà cha mẹ ngày càng khó khăn vì muôn vàn lý do … Biển mẹ vẫn hào phóng ban tặng cho con người muôn vàn sản vật, nhưng không thể là vô hạn …
Hít một hơi dài điếu thuốc, ông Cơ ung dung: Thực ra, nghề này đã được gia đình làm 3 đời, từ ông nội, bố đến ông nội. Gần 50 năm gắn bó với nghề, nhiều khi kéo lên chỉ thấy rong, rác quấn lưới nhưng không hiểu sao ông Cơ vẫn say mê, cái nghề “lạc hậu” ấy cứ đeo bám ông mãi.
Ông Cơ cho biết, ngày xưa ông bà cũng chèo thuyền thúng đi đánh cá nhưng lưới không thô như bây giờ, thời đó lưới làm bằng vải lụa rất tốt. “Mỗi giáp (một buổi kéo) trước đây kéo được 5 – 7 tạ cá, kể cả cá thu, cá hố… Dần dần về sau mỗi ngày một ít dần. Bây giờ đánh bắt trên biển nhiều phương tiện hiện đại nên nghề không bằng ngày xưa ”, ông Cơ thở dài.
Hiện nay, 3 mẻ lưới của ông Cơ, mỗi lần ra khơi kéo từ 12 – 15 người, thu nhập bình quân từ 300.000 – 400.000 đồng / người / ngày, thậm chí có lúc 1 triệu đồng / người. “Công việc không quá vất vả nên chị em cũng làm được, kiếm vài trăm nghìn một ngày cũng không khó. Tôi muốn giữ nghề này”, anh Cơ nói.
Ngồi trên bãi cát nghỉ ngơi sau 2 mẻ lưới, bà Lê Thị Vương (50 tuổi, thôn Kỳ Xuyên, xã Tịnh Kỳ) cho biết, kéo lưới là cách đánh bắt hải sản bằng lưới gần bờ độc đáo của người dân địa phương. biển. Nghề này bắt đầu từ khi Tết cổ truyền và kết thúc vào cuối tháng 9 (âm lịch). Việc kéo lưới thường được tiến hành vào sáng sớm, tuy nhiên tất cả phụ thuộc vào thời tiết nên không có thời gian cố định trong ngày. Mỗi khi sóng yên, họ cùng nhau kéo lưới ra khơi. “Thường kéo lưới từ 7 giờ đến 11 giờ là được một giáp. Khi nào kéo vào có cá thì bán cho người ta hoặc ra chợ bán. Trung bình một ngày kéo được khoảng vài chục ký hải sản, ít thì hơn 10 ký ”, bà Vương cho biết.
Khó khăn để duy trì công việc
Nghề kéo lưới có từ lâu đời và được ngư dân ven biển tỉnh Quảng Ngãi duy trì cho đến ngày nay. Nghề kéo lưới không chỉ ở xã Tịnh Khê, Tịnh Kỳ (TP.Quảng Ngãi), mà nhiều nơi khác như xã Đức Minh (huyện Mộ Đức); Xã Bình Châu, xã Bình Thành (huyện Bình Sơn).
Cái nghề gắn với hình ảnh “đi giật lùi trên cát” tuy vất vả nhưng ít tốn kém và mang lại thu nhập cho ngư dân nơi đây. So với việc lênh đênh trên các bờ biển nam bắc, ngư dân sống bằng nghề này an toàn hơn.
Vì vậy, có rất nhiều gia đình theo nghề được truyền từ đời cha sang đời con trai. Tuy nhiên, số lượng ngư dân theo nghề đã giảm nhiều so với ngày trước. Bây giờ, đây là nghề thường dành cho phụ nữ, hoặc những ngư dân lớn tuổi, không còn khả năng “cưỡi” sóng để ra khơi đánh bắt.
Làng Minh Tân Bắc (xã Đức Minh, huyện Mộ Đức) trước đây cũng nổi tiếng với nghề kéo lưới, nhưng nay chỉ còn 4 chiếc. Ngư dân Nguyễn Phương thở dài, không giấu được sự tiếc nuối: “Một phần cá vào bờ giảm, còn chủ nuôi tôm thì xả thải ra biển, dần dần ngư dân làng nghề phải chuyển nghề kiếm sống, không bám trụ được. lưới đánh cá để kiếm sống nữa.
Ở xã Tịnh Kỳ, trước đây có 20 chủ thuyền và khoảng 300 ngư dân mưu sinh bằng nghề. Giờ đây, số lượng tàu không đủ một bàn tay, chỉ còn lại vài chục người cùng sức lao động, lưu giữ nghề truyền thống của cha ông.
Tại bãi Khe Hai (xã Bình Thành, huyện Bình Sơn), nghề đánh bắt hiện nay chủ yếu phục vụ du khách. Khách trải nghiệm kéo lưới, có cá thì đem uống, không có cá thì cười biển. Cả vùng này chỉ có dân chài lưới, cầm tiền trong tay mà lòng buồn rười rượi, cái nghề chính một thời, giờ coi như chỉ để cho vui.
Ông Nguyễn Hoài Thanh – Chủ tịch UBND xã Tịnh Kỳ chia sẻ, nghề kéo lưới có truyền thống lâu đời của địa phương. Tuy nhiên, nghề này thu nhập bấp bênh, đánh bắt phải theo con nước, theo mùa vụ, phải huy động nhiều người cùng làm nên giờ chỉ còn một số gia đình.
“Hiện địa phương đang vận động bà con giữ nghề kéo lưới. Có nhiều du khách đến biển đã trải nghiệm nghề này, ngư dân có thêm thu nhập. Trong tương lai, khi phát triển du lịch biển tại đây, ngư lưới cụ sẽ là sản phẩm du lịch trải nghiệm. Vào những ngày băng giá, những tấm lưới xanh đỏ nổi bật mang đến bức tranh rất đẹp về nhịp sống trên biển Mỹ Khê, hứa hẹn hút khách ”, anh Thành cho biết.
Quảng Ngãi là địa phương có cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, hoang sơ với những làng chài hàng trăm năm tuổi ẩn chứa những tầng văn hóa bản địa huyền bí. Với ý tưởng phát triển du lịch trải nghiệm nghề chài lưới, đây hứa hẹn là mô hình du lịch xanh, được người Việt đón nhận nhiệt tình, vừa tăng thu nhập cho ngư dân, vừa bảo tồn văn hóa làng quê.