“Cẩm nang” làm giàu của nông dân cực Bắc – Kỳ cuối: Tạo sinh kế cho nông dân phát triển

Rate this post

17:37, 17/09/2022

BHG – Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân. Khi về thăm Hà Giang, Bác đã căn dặn: “Đời sống của người cao còn nhiều khó khăn, còn phải ra sức giúp đỡ người cao hơn nữa”. Lời căn dặn của Bác đã được cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở cụ thể hóa bằng các chủ trương, chính sách, tạo sinh kế để nông dân có cuộc sống ấm no.



Người dân xã Lũng Cú (Đồng Văn) chuyển đổi sang trồng cây trái vụ góp phần nâng cao đời sống.
Người dân xã Lũng Cú (Đồng Văn) chuyển đổi sang trồng cây trái vụ góp phần nâng cao đời sống.

Trao “cần câu” cho nông dân, cả hệ thống chính trị trong tỉnh triển khai các hoạt động tương thân, tương ái, giúp đỡ người nghèo, vì an sinh xã hội, tư vấn, hỗ trợ nông dân tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. khuyến khích phát triển kinh tế, như: Phối hợp với các ngân hàng, nhận ủy thác vốn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội, phát triển quỹ hỗ trợ nông dân. Đây vừa là “công cụ”, vừa là một trong những phương tiện hữu hiệu hỗ trợ, hướng dẫn nông dân xây dựng, hình thành mô hình kinh tế tập thể, các hình thức liên kết trong sản xuất, đáp ứng yêu cầu của nông dân. tập quán sản xuất nông nghiệp hàng hóa.



Người dân xã Nam Đàn (Xín Mần) phát triển nghề thêu truyền thống.
Người dân xã Nam Đàn (Xín Mần) phát triển nghề thêu truyền thống.

Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Trần Xuân Thủy chia sẻ: Tạo sức lan tỏa trong các phong trào thi đua sản xuất, từ năm 2017 đến nay, các cấp hội nông dân đã động viên, khích lệ, phát huy tinh thần đoàn kết, giúp đỡ vốn. , cây giống và kinh nghiệm sản xuất cho trên 9.000 hộ nông dân, giúp 5.000 hộ vươn lên thoát nghèo. Đồng thời, thúc đẩy việc hình thành, liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm đặc trưng. Có nhiều mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị như: Huyện Bắc Quang có mô hình chăm sóc cam theo hướng VietGAP tại thôn Vĩnh Xuân, xã Vĩnh Phúc với 10 hộ tham gia; mô hình chăn nuôi bò sinh sản tại thôn Hùng Thắng, xã Hùng An với 12 hộ tham gia; mô hình trồng đào cảnh tại thôn Tân Mỹ, xã Tân Quang với 12 hộ tham gia; Huyện Quang Bình có mô hình chăn nuôi trâu sinh sản tại thôn Hà Quang, Yên Thường, xã Vỹ Thượng …

Xín Mần – mảnh đất của nắng, gió, thiên nhiên khắc nghiệt, huyện xác định nhiệm vụ hàng đầu là tạo sinh kế cho 91,8% dân cư khu vực nông thôn về an ninh thu nhập. Các địa phương xác định vùng cụ thể, cây trồng, vật nuôi chủ lực có lợi thế, thế mạnh của địa phương để tập trung sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, đảm bảo an toàn, gắn với xây dựng chỉ dẫn địa lý. quản lý sản phẩm và truy xuất nguồn gốc. Đến nay, một số sản phẩm đã có quy mô lớn đưa ra thị trường và được người tiêu dùng ưa chuộng như: Gạo tẻ, chè, mướp đắng rừng, miến dong, hồng không hạt, mật ong rừng, Thảo quả. trái cây, gừng, nghệ …



Cán bộ, nhân dân xã Tả Nhìu (Xín Mần) giúp dân di dời chuồng trại ra khỏi nhà.  Ảnh: KIM TIẾN
Cán bộ, nhân dân xã Tả Nhìu (Xín Mần) giúp dân di dời chuồng trại ra khỏi nhà.

Chủ tịch UBND huyện Xín Mần Phạm Duy Hiển cho biết: Để hỗ trợ nông dân, huyện sử dụng sáng tạo, hiệu quả các nguồn lực đầu tư của Nhà nước trong điều kiện thực tế; chú trọng việc tổ chức lại sản xuất cho người dân; thành lập Ban quản lý phát triển thôn gắn với định hướng, hỗ trợ khoa học kỹ thuật trong sản xuất; triển khai đồng bộ các giải pháp đầu tư với thu hồi để tái đầu tư; thực hiện phương châm “liên kết 4 nhà” (Nhà nước, nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp); tạo điều kiện từ vốn đầu tư, khoa học công nghệ đến thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân; nổi bật như bún Gia Long với sản lượng hơn 200 tấn / năm; thành lập 2 HTX chế biến gạo, 7 HTX chế biến chè với sản lượng trên 500 tấn chè búp khô / năm và nhiều cơ sở chế biến chè, gạo quy mô gia đình; Các làng nghề truyền thống được quan tâm phát triển, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nông dân.

Thực hiện lời căn dặn của Bác: “Cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải đoàn kết chặt chẽ, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân …”, cùng với việc trực tiếp chăm lo đời sống nông dân được tỉnh ta hết sức coi trọng. đầu tư cơ sở hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số về giao thông, hệ thống trường học, trạm y tế, công trình nước sinh hoạt, nhà văn hóa; khôi phục, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc … góp phần nâng cao đời sống nhân dân, thu hẹp khoảng cách về mức sống các vùng, các dân tộc. Đặc biệt, tỉnh đã xác định những nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá và xây dựng nhiều nghị quyết chuyên đề, triển khai các chương trình, kế hoạch, đề án liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Đó là những quyết sách được đưa ra trên cơ sở bám sát thực tiễn, “đặt cuộc sống vào việc giải quyết”, với mục tiêu cuối cùng là tạo sinh kế, giúp người dân vươn lên thoát nghèo bền vững.

Chương trình phát triển nông thôn mới và các nghị quyết, chương trình cải tạo vườn tạp; hỗ trợ xây dựng nhà ở; xóa bỏ những hủ tục lạc hậu… đã ăn sâu vào đời sống của nông dân. Đặc biệt chương trình cải tạo vườn tạp đã làm thay đổi đáng kể nhận thức của nông dân; không gian sống của gia đình được bố trí lại hợp lý, khoa học, ngăn nắp, thuận tiện trong sinh hoạt; thôn, xóm sạch – đẹp; tác động mạnh mẽ đến chương trình xây dựng nông thôn mới vùng nông thôn miền núi của tỉnh. Đặc biệt, thay đổi nhận thức của người dân về tập quán sản xuất từ ​​tự cung, tự cấp sang tư duy sản xuất hàng hóa gắn với liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao hệ số sử dụng đất, không để hoang hóa; tích cực ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tạo hướng đi tiềm năng, mang lại hiệu quả kinh tế, xóa đói giảm nghèo bền vững.

Để tạo sinh kế cho nông dân, tỉnh ta tập trung các nguồn lực hỗ trợ nông dân phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; nhân rộng những mô hình mới, cách làm hay để nông dân học tập, làm theo. Vận động và tổ chức cho nông dân tham gia “liên kết 6 nhà” (Nhà nước – nhà nông – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp – ngân hàng – nhà phân phối). Tuyên truyền, vận động nông dân liên kết sản xuất với thị trường; tạo sự chuyển biến trong tư duy sản xuất kinh doanh của nông dân, từ coi trọng số lượng sang nâng cao chất lượng; từ sản xuất riêng lẻ sang liên kết, hợp tác để mở rộng quy mô sản xuất; sản xuất gắn với bảo vệ môi trường và tiêu chuẩn an toàn thực phẩm; trang bị kiến ​​thức và khả năng ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất; tập trung xây dựng các thương hiệu nông sản đặc sản của địa phương; tăng cường tuyên truyền, vận động, hướng dẫn thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là lĩnh vực chăn nuôi đại gia súc hàng hóa.

Một trong những khâu quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp của người nông dân là tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, tỉnh ta đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, dịch vụ, hỗ trợ nông dân quảng bá sản phẩm; làm cầu nối liên kết, hợp tác giữa nông dân, giữa nông dân với đơn vị, doanh nghiệp; hỗ trợ nông dân đầu vào và đầu ra trong quá trình sản xuất; tạo điều kiện về vốn đầu tư; tổ chức tập huấn khuyến nông; hướng dẫn nông dân đăng ký, xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm. Vận động nông dân ủng hộ; chia sẻ cách thức, kỹ thuật, bí quyết, kinh nghiệm để cùng nhau làm giàu; khuyến khích các hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi giúp hộ nghèo vươn lên. Hỗ trợ, thúc đẩy nông dân khởi nghiệp gắn với thực hiện chương trình “Mỗi xã phường một sản phẩm”; cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ, trang trại, xây dựng vườn mẫu; chương trình nông dân làm du lịch gắn với bảo tồn, khai thác và phát huy bản sắc dân tộc nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương …

Bằng việc cụ thể hóa lời căn dặn của Bác bằng những việc làm cụ thể; phát huy vai trò gương mẫu của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên và tính tích cực, chủ động của nông dân đã giúp cuộc sống của đồng bào vùng cực Bắc từng ngày đổi thay. Điều đó cho thấy, lời căn dặn của Bác thực sự là “cẩm nang”, là ngọn đèn soi đường, chỉ lối cho nông dân biên giới xây dựng cuộc sống ấm no.

Bài, ảnh: KIM TIẾN

Leave a Comment