Đến năm 2030, sản lượng nuôi trồng đạt 7 triệu tấn / năm

Rate this post

Theo đó, Văn phòng Chính phủ ngày 19/8 cho biết, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký Quyết định số 985 / QĐ-TTg ban hành Chương trình quốc gia phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2021-2030.

Đáng chú ý, mục tiêu chung của Chương trình là đến năm 2030, sản lượng nuôi trồng đạt 7,0 triệu tấn / năm, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.

N¨m häc 2030, m «i tr − êng tr − êng hîp ® − îc 7 triÖu USD.  1

Đến năm 2025, tổng sản lượng nuôi trồng đạt 5,6 triệu tấn / năm. Hình minh họa

Mục tiêu cụ thể giai đoạn 2021 – 2025: Đến năm 2025, tổng sản lượng nuôi trồng đạt 5,6 triệu tấn / năm, giá trị xuất khẩu đạt 7,8 tỷ USD / năm, tốc độ tăng giá. giá trị nuôi trồng đạt bình quân 4,0% / năm.

Chủ động sản xuất và cung ứng trên 50% nhu cầu tôm sú bố mẹ và trên 25% nhu cầu tôm thẻ chân trắng bố mẹ, trên 70% nhu cầu tôm bố mẹ chọn lọc; chủ động sản xuất và cung ứng đủ giống các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, sản lượng hàng hóa lớn.

Đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu đáp ứng yêu cầu sản xuất cho hơn 30 vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, vùng sản xuất giống tập trung; xây dựng chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ, đảm bảo đầu ra ổn định cho trên 30% sản lượng thủy sản.

Một trong những nội dung của Chương trình là phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong đó, đối với tôm nước lợ, áp dụng kỹ thuật mới, tiên tiến trong sản xuất nhằm tiết kiệm nước, nhiên liệu, thân thiện với môi trường, hướng tới không sử dụng kháng sinh trong sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng cao. , giá trị cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường; nuôi có chứng chỉ; canh tác theo hướng giảm thiểu phát thải khí nhà kính, giảm sử dụng vật liệu nhựa có hại cho môi trường sinh thái, giảm ô nhiễm môi trường.

Đa dạng hóa phương thức canh tác theo điều kiện vùng miền và thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu. Phát triển nuôi tôm trên các vùng đất bị nhiễm mặn, các vùng chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp hiệu quả thấp, phù hợp với điều kiện tự nhiên và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.

Ưu tiên phát triển phương thức nuôi có kiểm soát nhiệt độ trong vụ đông cho các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên Huế; ưu tiên phát triển các hình thức nuôi tôm sú trong rừng ngập mặn, nuôi sinh thái, tôm – lúa; tiếp tục phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng ở những vùng có điều kiện tự nhiên phù hợp, đáp ứng nhu cầu thị trường và phù hợp với quy hoạch của địa phương đối với các tỉnh ven biển Tây Nam bộ.

Đối với cá tra, tiếp tục phát triển nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long và các vùng có điều kiện tự nhiên phù hợp, đảm bảo theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.

Thực hiện kiểm soát chặt chẽ điều kiện nuôi theo quy định hiện hành, khuyến khích mở rộng diện tích nuôi theo tiêu chuẩn để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu. yêu cầu đối với thị trường tiêu thụ; khuyến khích áp dụng công nghệ nuôi mới, tiết kiệm nước, thích ứng với biến đổi khí hậu, xử lý nước thải, bùn thải để bảo vệ môi trường.

Đối với cá nước lạnh, tiếp tục mở rộng quy mô nuôi cá nước lạnh ở các vùng có tiềm năng, phù hợp vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và một số địa phương khác có nguồn nước phù hợp.

Ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nhằm tiết kiệm nước, bảo vệ môi trường, tạo sản lượng lớn, chất lượng cao cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu; đa dạng hóa các sản phẩm từ cá nước lạnh (trứng cá muối, cá hun khói …) để nâng cao giá trị sản phẩm …

Về quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc trong nuôi trồng thủy sản, xây dựng và phát triển vùng nuôi đảm bảo an toàn thực phẩm, giám sát dư lượng hóa chất, thuốc, kháng sinh; xây dựng và áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm phù hợp với quy định của pháp luật và yêu cầu của thị trường.

Kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc thủy sản …

Leave a Comment