Di sản vĩ đại của Cựu Thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo | Đời sống

Rate this post

Di chuyển đến Nhật Bản để so sánh người Nhật Bản, Abe Shinzo, hình 1Ông Takatoshi Ito, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính Nhật Bản

Thông tin cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe bị ám sát đã gây chấn động dư luận và cả thế giới. Đồng thời, sự kiện cũng khiến mọi người phải suy nghĩ lại về vai trò cũng như di sản đồ sộ mà anh để lại.

Một trong những bình luận đáng chú ý về di sản của ông Abe Shinzo là bài báo của ông Takatoshi Ito được đăng trên ấn phẩm Project Syndicate.

Takatoshi Ito, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính Nhật Bản, hiện là giáo sư tại Trường Các vấn đề Công và Quốc tế thuộc Đại học Columbia, Hoa Kỳ, và là giáo sư cấp cao tại Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia ở Tokyo, Nhật Bản.

VietnamPlus trân trọng giới thiệu nội dung bài viết của anh tới độc giả:

“Sự am sát Nguyên thủ tướng nhật bản Abe Shinzo vừa buồn vừa sốc. Bạo lực súng cực kỳ hiếm ở Nhật Bản. Có vẻ như cảnh sát địa phương ở Nara (nơi xảy ra vụ việc ám sát) và lực lượng Cảnh sát An ninh (tương đương Sở Mật vụ Mỹ, chịu trách nhiệm bảo vệ những người chủ chốt) đã không chuẩn bị tốt để bảo vệ ông Abe.

Đối với những người Nhật trong thế hệ của tôi, thảm kịch gợi nhớ đến vụ ám sát Tổng thống Mỹ John F. Kennedy vào năm 1963 và âm mưu ám sát ông nội của ông Abe, Thủ tướng Nhật Bản Nobusuke Kishi.

Ông Nobusuke bị đâm vào năm 1960, sau khi chính phủ của ông vượt qua sự phản kháng của Quốc hội để thông qua Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật.

Theo thỏa thuận đó, Mỹ cam kết cung cấp một “chiếc ô an ninh” trên lãnh thổ Nhật Bản để đổi lại việc Nhật Bản cho phép Mỹ thiết lập các căn cứ trên bộ, trên không và trên biển tại nước này. Đây là hiệp ước giữa những người bạn không bình đẳng và một trong những thành tựu chính của ông Abe là phát triển mối quan hệ song phương cân bằng hơn.

Ông Abe đã từng giữ chức Thủ tướng hai lần, lần đầu tiên từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 9 năm 2007 và lần thứ hai từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 9 năm 2020, khiến ông trở thành Thủ tướng tại vị lâu nhất. trong lịch sử các chính phủ dân chủ của Nhật Bản từ năm 1885.

Trong khi nhiệm kỳ đầu tiên của ông với tư cách là người đứng đầu chính phủ không đặc biệt thành công, nhiệm kỳ thứ hai của ông Abe đã mang lại những thay đổi về chính trị và kinh tế.

[Nhật Bản truy tặng huân chương cao quý nhất cho cố Thủ tướng Abe]

Bằng cách sửa đổi lập trường của Nhật Bản về nguyên tắc “tự vệ tập thể”, chính phủ thứ hai của Abe đã củng cố quan hệ với Hoa Kỳ bằng cách tạo điều kiện cho các lực lượng Nhật Bản tự vệ. Châu Mỹ trong vùng lân cận của đất nước.

Sau đó, bằng cách vun đắp mối quan hệ bạn chơi gôn thân thiết với Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Donald Trump, ông Abe đã cố gắng duy trì mối quan hệ đồng minh Mỹ-Nhật bền chặt trong những năm hợp tác. chính sách “Nước Mỹ trên hết.”

Chuyển đến Nhật Bản mùa thu và mùa đông Bức tranh 2 của Tổng thống Nhật Bản Abe ShinzoNguyên thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo ngay trước khi anh ta bị ám sát. (Ảnh: asahi.com/VNA)

Với chính sách “Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và cởi mở”, ông Abe đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra Bộ tứ (Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ) và đặt nền móng cho một nền kiến ​​trúc mới. kiến trúc hòa bình khắp vùng.

Trong nước, ông Abe đã khởi động chương trình kinh tế mang tên “Abenomics” (kết hợp giữa Abe và kinh tế học), gồm 3 “mũi tên” then chốt.

Mũi tên đầu tiên là một chính sách tiền tệ tích cực, được thiết kế để khắc phục tình trạng giảm phát kéo dài của nền kinh tế Nhật Bản. Đầu năm 2013, ông Abe đưa ra chính phủ lạm phát mục tiêu và bổ nhiệm Haruhiko Kuroda làm Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản. Ông Kuroda đã được trao quyền để đưa lạm phát về tỷ lệ mục tiêu, thông qua các chính sách tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo.

Mũi tên thứ hai của chương trình Abenomics là một chính sách tài khóa linh hoạt. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản sẽ kích thích nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái và thắt chặt chính sách khi nền kinh tế bùng nổ.

Ông Abe đã tung ra một đợt kích thích kinh tế lớn khi trở thành Thủ tướng Nhật Bản vào tháng 12 năm 2012, và sau đó là hai lần tăng thuế suất tiêu dùng.

Khi mối đe dọa về COVID-19 xuất hiện trong những tháng cuối cùng của ông Abe tại vị, chính phủ của ông đã đáp lại bằng một đợt kích thích kinh tế khác (và thực hiện một biện pháp tài trợ thâm hụt – tài trợ cho nền kinh tế). để xảy ra tình trạng chi vượt thu ngân sách). Do đó, mũi tên thứ hai đã trở thành một chính sách kinh tế Keynes phản chu kỳ hợp lý, hơn là một sự hợp lý hóa cho việc triển khai nhiều gói kích thích.

Mũi tên thứ ba của Abenomics là cải cách cơ cấu kinh tế như một chiến lược tăng trưởng. Mục tiêu này gây tranh cãi nhiều hơn, vì nhiều nhà quan sát coi đây là một công việc kinh doanh dở dang, nếu không muốn nói là thất bại.

Có một điều chắc chắn là tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế Nhật Bản trong lần cầm quyền thứ hai của ông Abe chỉ ngang bằng với 10 năm trước đó.

Tuy nhiên, dưới thời ông Abe, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ổn định hơn. Nhật Bản đã tránh được tình trạng trì trệ như trước nhiệm kỳ thủ tướng của Abe, bất chấp dân số trong độ tuổi lao động của nước này liên tục thu hẹp.

Tôi có vinh dự được làm việc với ông Abe khi ông bổ nhiệm tôi vào Hội đồng Chính sách Kinh tế và Tài khóa của Thủ tướng năm 2006. Trong nhiệm kỳ Thủ tướng đầu tiên, trọng tâm chính của ông Abe là cải cách. chính trị để làm cho Nhật Bản mạnh hơn và “tươi đẹp.”

Ông không có lập trường vững chắc về chính sách kinh tế nên đã yêu cầu Hội đồng đưa ra một loạt khuyến nghị về chính sách để giúp nền kinh tế phục hồi tiềm năng tăng trưởng.

Về khía cạnh này, chúng tôi khuyến nghị mở rộng các hiệp định thương mại tự do của Nhật Bản; chuyển đổi sân bay Haneda (gần trung tâm thành phố Tokyo hơn sân bay quốc tế Narita) thành nơi có thể tiếp nhận các chuyến bay quốc tế; tăng số lượng lao động nước ngoài tại Nhật Bản; thực hiện cải cách thị trường lao động để thu hút nhiều phụ nữ và người cao tuổi tham gia; cải cách quỹ hưu trí; hợp nhất các sở giao dịch chứng khoán và hàng hóa. Nhưng ông Abe đã từ chức chỉ sau một năm cầm quyền nên các khuyến nghị của chúng tôi đã không được thực hiện.

Khi trở lại nắm quyền vào năm 2012, ông Abe tỏ ra am hiểu và quyết đoán hơn rất nhiều trong lĩnh vực kinh tế. Khi theo đuổi mũi tên thứ ba của Abenomics, ông đã cố gắng tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ (womenomics) và tương tự là người cao tuổi. Đồng thời, ông nới lỏng các yêu cầu về thị thực để thu hút nhiều lao động và khách du lịch nước ngoài hơn.

Ông cũng đóng vai trò trung tâm trong đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và kế nhiệm của nó là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Ông đã thúc đẩy các nỗ lực cải cách Quỹ Hưu trí Đầu tư của chính phủ, giảm nắm giữ trái phiếu chính phủ lợi suất thấp xuống các mức tương ứng với trái phiếu trong nước, nước ngoài và nước ngoài.

Nói cách khác, ông Abe đã sử dụng nhiệm kỳ thứ hai của mình để tiếp tục những gì mà Hội đồng của chúng ta đã để lại vào năm 2007. Tôi cảm thấy vinh dự khi là một phần của những cải cách này.

Tôi không nghi ngờ gì rằng cái chết bi thảm và thương tâm của ông Abe là một mất mát to lớn đối với Nhật Bản và thế giới. Động lực thúc đẩy an ninh quốc gia và cải cách kinh tế của ông sẽ được ghi nhớ và tiếp tục xây dựng trong nhiều năm tới. Cầu mong anh ấy ra đi thanh thản ”.

Phương Linh (Vietnam +)

Leave a Comment