Hải chiến Việt Nam (Câu chuyện lịch sử) (Phần 26)

Rate this post

Kỳ 26.

XII-VAI TRÒ CỦA CON DẤU VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ TỔ QUỐC

Lính thủy đánh bộ giải phóng dân tộc khỏi ách phong kiến ​​phương Bắc

Đất nước lâm nguy, Ngô Quyền đã đứng ra lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến cứu nước. Khi quân Nam Hán còn ở ngoài biên giới, được quân và dân ủng hộ, Ngô Quyền kéo quân từ châu Á (Thanh Hóa) ra Bắc vây thành Đại La, tiêu diệt tên phản quốc là Kiều Công Tiễn, vội vàng lui bước. đến tổ chức kháng chiến. Nắm chắc hướng tiến công của địch, chủ yếu từ mặt biển, Ngô Quyền huy động quân dân cắm cọc cắm đầu xuống lòng sông Bạch Đằng ở nơi hiểm trở nhất gần cửa biển, tạo thành trận địa ngầm. Sau đó Ngô Quyền cho thủy quân và nghĩa quân mai phục ở trận địa, chờ thủy quân của giặc đến.

bach-dang-2-1-1664799392.jpg
Hình minh họa chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Nguồn: baotanglichsu.vn

Quân ta vừa chuẩn bị xong thì thủy quân của địch vừa ập đến. Lưu Hoằng Thao đem quân sang sông. Ở cửa sông Bạch Đằng, triều cường dâng cao làm ngập cọc, gió thổi mạnh. Ngô Quyền đã dùng một đội tàu chiến hạng nhẹ thách thức và chiêu dụ thủy quân địch từ Vịnh Hạ Long đến sông Bạch Đằng. Trong khi chiến đấu, hải quân của chúng tôi đã giả vờ bị đánh bại. Vị tướng trẻ Lưu Hoằng Thao ngạo nghễ bị đại đội binh thuyền truy đuổi nên tất cả các tàu địch đều vượt qua, lọt vào trận địa ngầm của quân ta. Quân ta chống trả địch chờ thời cơ. Khi nước triều rút mạnh, Ngô Quyền lệnh cho thủy quân và bộ binh mai phục hai bên xông ra đánh, đồng thời thủy quân của ta cũng quay ra chống trả. Cả hai bên đều bị đánh trả quyết liệt, ác liệt, thủy quân của địch tan rã tháo chạy, đến gần biển, tàu chiến địch gặp gai gãy, bị đắm rất nhiều. Bị cọc chặn, chiến thuyền của quân Nam Hán không thoát ra biển được, bị bè lửa của Ngô Quyền đốt cháy. Quân giặc chết đuối và bị quân ta giết chết không biết bao nhiêu mà kể. Tướng giặc Lưu Hoằng Thao đã hy sinh trong trận hỏa lực ác liệt đó. Như vậy, lực lượng xâm lược chủ lực của quân Nam Hán đã bị tiêu diệt hoàn toàn trong vòng chưa đầy một ngày. Vua Nam Hán đang đem quân tiếp viện cho con trai thì nghe tin thủy quân bị tiêu diệt, Lưu Hoằng Thao tử trận, hết sức hoảng sợ, vội thu tàn quân bỏ chạy về nước.

Trận thủy chiến Bạch Đằng là chiến công rực rỡ nhất trong lịch sử đấu tranh vũ trang giải phóng của quân và dân ta từ trước đến nay. Đó là một chiến dịch mà vinh quang thuộc về toàn dân, với lực lượng hải quân làm nòng cốt. Đó là biểu hiện của tài năng quân sự tuyệt vời của dân tộc ta nói chung và tài thủy binh nói riêng, trong đó Ngô Quyền là một nhân vật tiêu biểu.

Ngô Quyền là một nhà chiến lược tài ba và sáng suốt, đã thấy được tầm quan trọng của hậu phương cho trận chiến sắp tới. Vì vậy, trước khi bước vào cuộc đối đầu với kẻ thù, đồng chí phải ổn định và củng cố tình hình trong nước, củng cố vững chắc chính trị và tinh thần của hậu phương. Từ Á kéo ra, hắn xông thẳng xuống thành Đại La để tiêu diệt Kiều Công Tiễn và những kẻ phản bội khác. Ngô Quyền hiểu rằng nếu để quân xâm lược vào cấu kết với lực lượng của Kiều Công Tiễn sẽ gây khó khăn rất lớn cho cuộc kháng chiến. Nếu cuộc kháng chiến nhân đôi, cuộc kháng chiến có thắng lợi hay không cũng phải trải qua một quá trình chiến tranh phức tạp và lâu dài. Trong trường hợp Ngô Quyền đem quân đi đánh tan quân xâm lược rồi quay lại tiêu diệt kẻ phản bội sau này càng nguy hiểm hơn vì khi đó hậu phương sẽ không ổn định, quân đội của ông sẽ bị quân xâm lược tấn công. , kẻ phản bội đánh sau lưng. Vì vậy, việc Ngô Quyền xông pha tiêu diệt lực lượng của Kiều Công Tiễn trước khi vào trận có tác dụng to lớn về quân sự, chính trị, củng cố tinh thần quân dân, củng cố hậu phương vững chắc, quyết định sự thành bại của nghĩa quân. trận chiến sắp tới.

Trong khi phân tích tương quan, so sánh lực lượng giữa ta và địch, Ngô Quyền đã có những đánh giá rất đúng đắn. Đây là nguyên tắc gần như bất di bất dịch đối với bất kỳ chiến lược gia nào. Từ việc phân tích, đánh giá đúng mối tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ đó đưa ra đường lối, phương án tác chiến đúng đắn. Đánh giá sai tương quan lực lượng, cho rằng ta mạnh hơn địch, địch mạnh hơn ta đều dẫn đến sai lầm trong chỉ đạo chiến tranh và tất yếu nhà chiến lược phải thất bại. Biết mình, biết người khác, trăm trận trăm thắng, trăm trận trăm thắng, đó là câu ngạn ngữ của các vị đại tướng và là chân lý trong lịch sử chiến tranh. Sau khi nắm chắc âm mưu xâm lược của quân Nam Hán và khi nghe tin thủy quân địch chuẩn bị sang xâm lược, Ngô Quyền đã nói với các tướng rằng: “Hoàng Thao là đứa trẻ dại dột mà đem quân từ xa đến, quân sĩ đều mệt, nghe lời tin Công Tiễn đã chết, không có ai làm việc bên trong, mất tinh thần, quân ta mạnh, quân địch mệt, ta tiêu diệt được, nhưng chúng có lợi thuyền, nếu ta không phòng bị thì sai người. phải đặt những cây cọc lớn dưới lòng biển trước, đầu nhọn bịt sắt, thuyền của họ nhân lên khi thủy triều lên và chui vào bên trong hàng cọc, thì ta sẽ dễ dàng thuần hóa, còn gì tuyệt vời hơn ”.[1].

Đó là sự đánh giá chính xác so sánh lực lượng giữa ta và địch và là phương châm chỉ đạo của chiến dịch và kế hoạch tác chiến. Ngô Quyền nhận thấy điểm yếu cơ bản của địch là từ căn cứ xuất phát đến trận địa quá xa, quân viễn chinh không có hậu phương sát, khó tiếp tế lương thực, vũ khí. Đoàn quân mệt nhoài trước khi vào trận. Hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Xa hậu phương, một đội quân dù hùng mạnh đến đâu cũng không thể vượt qua được những khó khăn do chiến dịch gây ra và sẽ dẫn đến thất bại. Những danh tướng lỗi lạc nhất cũng đã chôn vùi thanh danh vì đã đem quân vào chiến trường tách biệt với hậu phương. Đó cũng là điểm yếu cơ bản nhất của quân Nam Hán, điểm yếu đó họ không thể khắc phục được. Để khắc phục điểm yếu đó, quân giặc đã lên kế hoạch nhanh chóng tiến vào nước ta, hội quân với tên phản bội Kiều Công Tiễn. Nhưng việc giết chết Kiều Công Tiễn đã làm cho quân Nam Hán mất chỗ dựa và vì thế mà mất đi lợi thế. Việc Ngô Quyền tiêu diệt Kiều Công Tiễn trước khi nhập cuộc không chỉ tạo lợi thế về chính trị, quân sự cho quân ta mà còn có tác dụng to lớn về mặt quân sự.

Ngô Quyền cũng đánh giá điểm mạnh của địch là ưu thế về quân số và sức mạnh của thủy quân. Hiện nay, không có nguồn nào cho chúng ta biết chính xác vua Nam Hán đã sử dụng bao nhiêu vạn quân trong cuộc xâm lược năm 938. Theo Lê Văn Hưu, một nhà sử học nổi tiếng thời Trần, chỉ riêng thủy binh của Lưu Hoằng Thao cũng đã lên đến hàng trăm. hàng vạn, chưa kể quân số do vua Nam Hán đang ở Hải Môn (Bắc Trạch – Quảng Đông) chuẩn bị vượt biên tràn vào, tuy không rõ quân số chính xác nhưng trong cuộc chiến này. rõ ràng quân địch vượt xa quân ta về số lượng. Nhưng đó không phải là thế mạnh cơ bản, không lâu dài và lợi thế đó có thể mất đi nếu kẻ thù có chiến lược chiến tranh đúng đắn.

(Còn nữa)

CVL

—————

[1] Ngô Sĩ Liên và các sử thần thời Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, trang 140-141.

Leave a Comment