Hòa thượng Thích Trí Quảng, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn tưởng niệm 69 năm ngày mất của Tổ sư Huệ Đăng

Rate this post

Hôm nay, 8/8 (11/7-Nhâm Dần), Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quảng, Quyền Pháp chủ GHPGVN đã về Tổ đình Thiên Thai (Long Điền, Bà Rịa – Vũng Tàu) đảnh lễ Tổ. Huế. Đăng (1873-1953), người sáng lập Thiền phái Thiên Thai, nhân ngày giỗ lần thứ 69 của Ngài.

Kim quan Hòa thượng Thích Trí Quảng đã làm lễ trước Tháp Tổ tại Tổ đình Thiên Thai vào sáng ngày 8 tháng 8 năm 2022

Kim quan Hòa thượng Thích Trí Quảng đã làm lễ trước Tháp Tổ tại Tổ đình Thiên Thai vào sáng ngày 8 tháng 8 năm 2022

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN hôm qua 7-8 cũng đã đến đây đảnh lễ Giác linh Tổ sư và viếng bảo tháp công đức Tổ sư.

Chân dung Tô Huệ Đăng (1873-1953)

Chân dung Tô Huệ Đăng (1873-1953)

Tổ Huệ Đăng, hiệu là Lê Quang Hòa, sinh năm Quý Dậu (1873) dưới triều Tự Đức năm thứ 26, tại xã An Đồng, huyện Bình Khê, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, tại một gia đình. Nho giáo.

Cha ông là một nhà Nho nên ông được học từ năm lên 5. Năm 7 tuổi ông đã được vào học trường huyện. Nhờ trí thông minh thiên bẩm, cậu học trò Lê Quang Hòa luôn chiếm ưu thế.

Sau sự kiện kinh đô Huế thất thủ (Ất Dậu 1885), vua Hàm Nghi phải bỏ làng ra chiếu Cần Vương. Vừa lúc đó có kỳ thi Hương tại trường thi Bình Định, các học sinh cùng nhau hủy thi, phá trường, hò reo tham gia phong trào Cần Vương, chống Pháp cứu nước. Chàng thanh niên Lê Quang Hòa cũng đã xếp bút nghiên, đứng vào hàng ngũ nghĩa quân Bình Định của ông Mai Xuân Thưởng và Bùi Diệu.

Năm Đinh Hợi (1887), sau khi nghĩa quân Cần Vương bị Pháp đàn áp, các thủ lĩnh lần lượt hy sinh, ông phải lánh nạn ở vùng Bà Rịa, tạm khoác áo nhà giáo để che mắt giặc. để chờ đợi cơ hội. liên kết và tìm kiếm đồng đội.

Anh đi khắp các tỉnh miền Đông xuống Gò Công. Đi đến đâu ông cũng thất vọng vì lúc đó quân Pháp đã thiết lập chế độ cai trị với bộ máy đàn áp và tay sai khắp nơi. Phong trào Cần Vương không có ảnh hưởng ở Nam Bộ. Sau đó, anh ta trở về Bà Rịa, tạm trú tại nhà người bạn cũ.

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS GHPGVN chủ lễ an táng tháp Tổ - Ảnh: Đăng Huy

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch HĐTS GHPGVN chủ lễ an táng tháp Tổ – Ảnh: Đăng Huy

Năm 1900, một ngày nọ, đang đi lên đồi Chân Tiên, cảm thấy buồn bã vì thời cuộc, bỗng vang lên tiếng chuông chùa trầm buồn giữa núi rừng vắng vẻ, người thanh niên yêu nước này chợt tỉnh giấc từ một giấc mơ. . Sáng hôm sau, ông đến Long Hoa cổ tự gặp Sư Hai Hội – Chánh Niên.

Qua phong thái và tâm trạng, Tổ nhận thấy đây là pháp khí cho Phật giáo mai sau nên khuyên ông xuất gia tu đạo.

Nghe lời Tổ dạy, ông tự nghĩ “Cứu nước chưa xong thì phải cứu mình”, từ đó ông xin xuất gia học đạo. Ngài Hải Hội – Chính Tâm dạy giới luật và đặt pháp danh Thiện Thức. Anh siêng năng học hành, hiểu nhanh những điều trong rừng thiền, được Sư phụ yêu quý và kính trọng.

Năm 1901, ông được Bổn sư cử đi học với Tô Trí Hải tại Thiên Thai Sơn Thạch Tự ở Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Ngài ở đây ba năm miệt mài tu học, tỏ ra là người có trí tuệ uyên bác, thông thạo kinh, luật, luận. Sau đó Ngài trở về chùa Long Hoa. Thấy đạo pháp và trí tuệ xứng đáng là người bảo hộ cho mai sau, Tổ Hải Hội đã truyền Giới và đặt cho Pháp danh Thanh Kê, pháp danh là Huệ Đăng.

Vườn tháp tại đình Thiên Thai - Ảnh: Đăng Huy

Vườn tháp tại đình Thiên Thai – Ảnh: Đăng Huy

Năm đó 30 tuổi (1903), Ngài được về trú trì chùa Kiến Linh hơn một năm. Sau đổi về trú trì chùa Phước Linh, xã Tam Phước, tỉnh Bà Rịa vào năm 1904 và cũng trong năm này, Ngài được nhập học với các vị sư đầu tiên tại chùa Giác Viên do Tổ sư Hoằng Ân trụ trì.

Năm Ất Tỵ 1905, Tổ Hải Hội viên tịch tại chùa Long Hoa. Ông phải về quê để chịu tang và xây dựng bảo tháp. Lúc này, ông lên núi Dinh (núi Dinh Cô) khai phá Thạch Động làm nơi ẩn cư. Ngài ở đây hai năm để thiền định và tụng Kinh Pháp Hoa. Danh tiếng và uy đức của ông vang dội khắp nơi, tín đồ tứ phương ngày càng sùng đạo, tín đồ theo ông tu học ngày càng nhiều.

Năm 1908, lúc 35 tuổi, chùa Châu Viên ở Bà Rịa mở trường Kỳ, núi thỉnh Ngài về làm Yết ma, đồng thời làm pháp sư trong tổ đó.

Năm 1910, ông vẫn ở lại Thạch Động, được ông đặt tên là Động Thiên Thai. Thạch động nhỏ, không phải là chốn xưa nên Ngài đã nghĩ đến việc xây dựng chùa Thiên Thai dưới chân núi Dinh để thu nhận Tăng đoàn và truyền bá Phật pháp.

Năm 1913, chư Tăng trong tỉnh cung thỉnh Ngài về tổ chức giới đàn tại chùa Phước Linh, xã Tam Phước, Bà Rịa. Tại Đại giới đàn này, Ngài được tôn làm Hòa thượng.

Năm 42 tuổi, Ngài được cung thỉnh về trú trì chùa Bà Láng Le ở Cái Tàu Thượng (Sa Đéc) do Phật tử thờ cúng. Tại đây, sự truyền bá Phật pháp của ông đã có cơ hội phát triển. Nhiều nhà sư từ khắp nơi trên thế giới đến tu học và phát tâm theo nguyện.

Từ đó, pháp môn của Ngài được truyền bá trong núi, nên trong các đại lễ, các chùa đều thỉnh Ngài làm Pháp chủ hoặc Chứng minh. Ông không từ chối dù phải đi xa, như năm 1918 làm Giám học Hương trường ở Sắc tứ Quan Âm (Cà Mau), năm 1920 làm Chứng minh trường Hương ở chùa Phước Trường, v.v. .

Sau một thời gian lưu lạc ở các tỉnh phía Nam, Ngài cùng một đệ tử trở về ẩn cư ở động Mai trên núi Dinh, sống khổ hạnh tu thiền. Anh bị chính quyền địa phương nghi ngờ có tổ chức chống Pháp nên buộc phải rời khỏi động Mai.

Một góc đình Thiên Thai - Ảnh: Đăng Huy

Một góc đình Thiên Thai – Ảnh: Đăng Huy

Năm 1925, ông lại dẫn họ lên sườn núi Dinh khai hoang, lập vườn cây ăn trái. Sau 5 năm chăm bón, chăm chỉ, vườn cây sưa đã đơm hoa kết trái đủ để các đệ tử lớn lên học hành.

Năm 1929, ông cho trùng tu lại ngôi đình Long Hòa cho khang trang. Vì chùa đã bị hư hại sau 200 năm xây dựng. Và đến năm 1933, theo yêu cầu của tín đồ, ông đã cho xây dựng tháp Thiên Bửu (còn gọi là Cửu Liên Đài) ở phía đối diện chùa Thiên Thai.

Năm 1931, Hòa thượng Khánh Hòa, vị đại sư của phong trào chấn hưng Phật giáo đã vận động chư Tăng thành lập Hội Nghiên cứu Phật học Nam kỳ, đặt tại chùa Linh Sơn gần chợ Cầu Muối. Rất tiếc, trên con đường hoằng pháp, hội này gặp phải trở ngại nên công việc Phật sự không được suôn sẻ.

Trước tình hình đó, các nhà sư ở Nam Kỳ tâm huyết, tha thiết với mục đích chấn hưng Phật giáo đã phải trở về các chùa, tỉnh thành lập các tổ chức Phật giáo với nhiều tên gọi khác nhau để truyền bá Phật pháp. .

Hòa thượng Khánh Hòa thành lập Hội Phật học Bích Vân năm 1934, Hòa thượng Trí Thiện thành lập Hội Kinh tế học Phật học năm 1937. Cùng chí hướng năm 1935, ông thành lập Hội Thiền tông Thiên Thai, trụ sở chính tại chùa. Long Hoa ở Bà Rịa – Vũng Tàu, đồng thời xuất bản tờ báo Bát Nhã Âm để vận động phong trào chấn hưng Phật giáo, hoằng dương chánh pháp. Trường giáo dưỡng cũng được mở tại chùa Long Hoa, quy tụ ngày càng nhiều Phật tử xuất gia và cư sĩ theo học.

Ngài thường nói với các tín đồ của mình rằng: “Hộ trì Phật pháp chính là mở rộng việc hoằng pháp lợi sinh, giáo hóa thiện lương, gieo trồng nhân duyên, cội rễ của phước báo”. Chính nhờ quan niệm đúng đắn đó mà sự truyền bá giáo lý của Ngài đã lan rộng khắp nơi.

Năm 1941, ông trở về quê hương. Vì ngưỡng mộ danh tiếng và đức độ của Hòa thượng, các quan huyện Bình Khê cùng đông đảo nhân dân trong huyện đã đến thụ giáo và thỉnh cầu Ngài về ở lại đây truyền đạo. Ngài chọn núi Ông Đốc thuộc xã Bình Tường – Phú Phong – Tây Sơn – Bình Định, lập chùa Thiên Tôn.

Năm 1943, Sơn môn trong Nam cử người đưa về chùa Thiên Thai. Lúc đó sức khỏe của anh ấy đã sa sút rất nhiều. Ngài luôn khuyên tín đồ của mình tinh tấn tu hành, cố gắng gìn giữ Phật pháp, một lòng một dạ với sự nghiệp cầu lợi. Ngài sắp xếp thứ bậc trong tổ đình Thiên Thai và nhiệm vụ truyền thụ công pháp cứu độ sinh cho các đệ tử của mình.

Năm sau (1944), Ngài trở về chùa Thiên Tôn – Bình Định và ngày 11 – 07 – Quý Tỵ (1953), Ngài nhập đại định kiết già, quay mặt về hướng Tây, niệm Phật danh hiệu. . chủ tịch. Bảo tháp nơi lưu giữ thi hài của Ngài được xây dựng trên sườn núi Ông Đốc cạnh chùa.

Công lao và đức độ sáng ngời của ông còn được thể hiện qua nhiều bài thơ Nôm. Những bài kinh điển do nghệ nhân Nôm truyền tụng vẫn còn được lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay, như: Kinh Vu Lan Nghĩa, Kinh Di Đà nghĩa thục, Bát Nhã Tâm Kinh, Tịnh Độ Trường Quyền, Bài Sám Thảo Lữ…

Hòa thượng Huệ Đăng và Tổ đình Thiên Thai tiêu biểu cho tinh thần Phật giáo gắn với truyền thống tôn sùng yêu nước: Nước có độc lập tự chủ thì đạo pháp mới vẹn toàn.

Leave a Comment