Đối với đồng bào dân tộc Dao ở Na Sầm, xã Sơn Phú (Na Hang, Tuyên Quang), trang sức bạc là vật linh của tổ tiên. Nếu không đeo bạc, chẳng khác nào con nai lạc trong rừng già, con cá mắc cạn bên bờ suối, không được phép. Chúa che chở, quên cả lối về, quên cả cội nguồn.
Sự nghiệp chọn người
Khi mặt trời dần ló dạng khỏi đỉnh núi Xâm Mu, anh Chúc Tá Quyền (thôn Nà Sầm, xã Sơn Phú) mới nhóm lửa làm công việc quen thuộc của mình. Anh Quyền là một trong số ít người còn làm nghề chạm khắc trang sức bạc truyền thống của đồng bào Dao ở vùng núi này.
Dù không xuất thân trong gia đình làm nghề bạc nhưng anh Quyền bén duyên với nghề từ năm 15 tuổi và từ đó những hoa văn trên sản phẩm bạc của người Dao cứ thế cuốn hút anh như một duyên số.
Theo ông Quyền, người Mông, Nùng, Cao Lan, Dao … đều có nghề chạm bạc và thường giống nhau ở khâu đầu tiên là xử lý nguyên liệu bạc qua quạt thổi. Từ nấu bạc, đổ bạc ra máng đợi nguội rồi dùng búa đập đều, dứt khoát, vuông vắn theo kích thước, sau này nắn sẽ dễ hơn.
Nhưng hoa văn trên chất liệu bạc mới là điều tạo nên sự khác biệt và độc đáo trong nghề chạm bạc của mỗi dân tộc. Đây là bước quan trọng tạo nên linh hồn của từng món trang sức. Đó cũng là lý do mà người Dao đỏ ở Na Sầm luôn quan niệm rằng, bạc là linh hồn, là niềm tin từ bao đời nay.
Dưới bàn tay chai sạn sau hàng chục năm dãi nắng dầm mưa, cuộc đời của ông Quyền, những mảnh bạc vô tri vô giác như được hồi sinh. Mỗi người làm công việc chạm khắc bạc đều không thể thiếu một chiếc đục với những chức năng khác nhau.
Cầm chiếc đục nhỏ gọn đã cũ kỹ theo thời gian, anh Quyền chia sẻ: “Cái này gọi là” Ping po do zeng “dùng để chạm hoa văn li ti,” Alkaline ping “dùng để chạm hoa văn chấm, loại” khó thành thục “dùng. để chạm vào các sọc dài, “Sun-ban” được sử dụng để chạm vào các hoa văn hình vuông … “
Khi nhìn những hoa văn tinh xảo trên trang sức của người Dao, người ta nghĩ rằng người thợ chạm bạc phải sở hữu một bộ công cụ tinh xảo và phức tạp. Nhưng sự tinh tế đó lại đến từ những thứ rất đơn giản, một trong số đó phải kể đến là chiếc đe gỗ. Thông thường chiếc đe gỗ đi theo cả cuộc đời của người thợ, có khi truyền qua nhiều đời. Người Dao gọi là Dung zăng, nó được làm bằng một miếng gỗ nhỏ, rộng 30 cm, dày 5-7 cm.
Hai tay thoăn thoắt dùng búa gõ nhẹ khuôn vào chiếc đe gỗ để tạo ra âm thanh chắc chắn, anh Quyền chia sẻ: “Bề mặt mỗi chiếc đe gỗ được phủ khoảng 30 loại nhựa từ cây rừng và sáp ong, dầu mỡ, với độ dày 10 cm. Nhờ bề mặt có độ bám dính cao nên bạc được giữ chắc tại chỗ, người thợ tập trung tuyệt đối vào việc chạm khắc hoa văn mà không sợ bị xê dịch. “
Trên các tác phẩm chạm khắc bạc của người Dao đỏ, các nghệ nhân thường sử dụng những họa tiết, hoa văn mang dáng dấp của thiên nhiên. Các nghệ nhân phải vận dụng óc sáng tạo và con mắt thẩm mỹ của mình để chạm khắc những họa tiết như kể chuyện trên trang sức. Làm cho chúng mềm mại, sống động, nhẹ nhàng và tinh tế.
Nếu là quà đính hôn thì vòng tay và vòng cổ được khắc họa tiết đôi cá với ý nghĩa gắn kết cô dâu chú rể trọn đời hạnh phúc bên nhau. Bông tai bạc nữ chạm khắc hoa cách điệu, nhẫn thường có họa tiết cây dương xỉ, cúc áo có họa tiết hình lá hẹ, hạt dưa, lá cọ …
Ông Chúc Tá Quyền cho biết, trước đây khi chưa có tiền giấy như bây giờ, người Dao dùng bạc trắng để mua bán hàng hóa. Hầu hết mọi sinh hoạt trong cộng đồng người Dao đều gắn liền với bạc trắng, ngay từ khi đứa trẻ mới sinh ra, ông bà đã làm mũ có gắn những chiếc chuông bạc nhỏ để âm thanh đầu tiên lọt vào tai đứa trẻ là của dòng họ.
Để rồi khi đứa trẻ lớn lên, mỗi giai đoạn cuộc đời đều gắn liền với bạc trắng. Từ đám cưới, lễ vật đến đám tang đều có bạc trắng. Bạc trắng được truyền từ đời này sang đời khác của dân tộc Dao và họ vẫn mang trong mình niềm tin rằng người đeo bạc sẽ xua đuổi tà ma, tránh gió và được thần linh phù hộ.
Từ cái nghề nên duyên
Ông Tạ Chúc Quyền có lẽ là một trong số rất ít nghệ nhân cao tuổi ở Na Sầm còn giữ được nghề chạm bạc hàng trăm năm và luôn có vợ ở bên. Anh Quyền cho biết, con gái Na Sầm lớn lên xinh đẹp, khéo léo, lấy chồng, chăm chồng, thương con nên công việc anh đang làm như nâng niu, tôn vinh vẻ đẹp của họ.
Nhớ lại cơ duyên đã đưa mình đến với nghề và cũng là người vợ đã gắn bó với mình gần hết cuộc đời, anh Quyền như sống lại khoảnh khắc ấy: “Lúc đó, tôi mới 15 tuổi, tôi đã theo cô giáo chạm bạc ở chợ Trùng Khánh., lúc đó cô đang học nghề nhưng nên tập trung, chăm chỉ làm việc và không quan tâm đến ai, chỉ biết sau buổi chợ cô đã xin được một chiếc đồng. vòng.”
Trong suy nghĩ của chàng trai vừa bước vào đời ngày ấy, cuộc gặp gỡ ấy giống như một cuộc gặp gỡ định mệnh với cô gái trẻ nhà bên. Hình ảnh chàng trai siêng năng không ngại tiếng cười của bạn bè đồng trang lứa đã khiến cô gái trẻ Triệu Thị Tòng xao xuyến. Cô gái xinh đẹp đã chủ động làm quen, trong phút chốc cả hai đã ngồi bên nhau say sưa nói chuyện.
Cuối phiên chợ, anh Quyền tặng cô gái làng chơi một chiếc vòng đồng nhỏ làm kỷ niệm, càng đặc biệt hơn khi chiếc nhẫn là sản phẩm đầu tiên do chính tay chàng trai làm ra. Mới học nghề, chỉ được thử làm những chiếc nhẫn bằng chất liệu đồng nhưng cô gái họ Tống tỏ ra thích thú, trầm trồ khen ngợi sản phẩm.
Vẫn nỗi niềm như cách đây hơn 50 năm, ông Quyền kể: “Lúc đó, tôi rất vui và có động lực vì có người thương mình muốn lưu giữ những món đồ do mình làm ra nên tôi đã hào phóng tặng một chuỗi vòng đồng. rồi đánh liều nói rằng, tôi sẽ cố gắng học để trở thành một người thợ chạm bạc giỏi và sẽ tự tay làm tất cả những món đồ trang sức bằng bạc cho người con gái tôi yêu ”.
Hẹn hò ấy nhanh chóng trở thành hiện thực, 2 năm sau, nhà họ Chúc đưa dâu đến hỏi cưới cô gái Triệu Thị Tòng. Những chiếc vòng cổ, lắc tay, nhẫn, bao chỉ bạc… lấp lánh như minh chứng cho lời hẹn ước của tình yêu, thể hiện bản lĩnh cao đẹp của chàng trai. Sau bao nhiêu năm, mối tình đẹp và những kỷ vật đầu đời vẫn luôn được ông Quyền và bà Tòng gìn giữ.
Sau bao nhiêu năm, những lúc rảnh rỗi, bà Tòng thường ngồi bên ông Quyền để phụ giúp chồng chế tác bạc, bà kể: “Người Dao vốn thích trang sức bằng bạc, nên tôi là vợ của một người thợ chạm bạc, nhiều nhẫn lắm. , nhiều chiếc nhẫn lạ mắt, tự hào lắm. Nghề tuy không giàu nhưng được mọi người kính trọng và yêu mến, đó là lý do anh vẫn giữ nghề cho đến tận bây giờ “.
Ở Na Sầm bây giờ, chỉ còn ông Quyền là còn giữ được nghề chạm bạc, dường như nhịp sống hiện đại hối hả hay cơ giới hóa đã đến với làng nghề, không ảnh hưởng đến niềm đam mê với nghề. người đàn ông đó. Bởi với ông Quyền, giữ nghề chạm bạc cũng chính là giữ hồn của người Dao.