Món cơm lươn Nhật Bản rất quý, được gọi là “vàng trắng”

Rate this post

Đặc sản “em bé cụt chân” ở Nhật Bản có nguy cơ tuyệt chủng

Tsuyoshi Hachisuka nhẹ nhàng đặt những xiên lươn Nhật Bản lên vỉ nướng, chuẩn bị một món ăn Nhật Bản được nhiều người yêu thích. Hiện sinh vật này đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng khiến giá món ăn này tăng chóng mặt. Cá chình Nhật là loài cá thuộc bộ cá chình, sống ở nước ngọt / lợ, nhưng đẻ ở nước mặn, tên khoa học là Anguilla japonica. Tuy được gọi là cá chình nhưng chúng không có quan hệ họ hàng với cá chình ở Việt Nam.

Thưởng thức đặc sản

Đầu bếp Nhật Bản Tsuyoshi Hachisuka chế biến món lươn nướng tại nhà hàng của ông ở Hamamatsu, tỉnh Shizuoka, Nhật Bản. Ảnh: AFP

Được tiêu thụ trên toàn thế giới, lươn Nhật Bản đặc biệt phổ biến ở Châu Á, đặc biệt là ở Nhật Bản. Một số di vật được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ ở đất nước mặt trời mọc cho thấy cá chình Nhật Bản đã từng ăn thịt trên quần đảo này từ hàng nghìn năm trước.

Bất chấp sự nổi tiếng lâu dài của nó, nhiều điều về cá chình Nhật Bản vẫn còn là một bí ẩn. Không rõ chính xác nó tái tạo như thế nào. Nhiều nỗ lực nuôi và nhân giống chúng đã không thành công như mong đợi. Nguồn cung cấp từ tự nhiên do ô nhiễm để đánh bắt quá mức đã giảm đáng kể trong những thập kỷ gần đây.

Thưởng thức đặc sản

Đầu bếp người Nhật Bản Hachisuka nướng lươn tại nhà hàng của mình ở Hamamatsu. Ảnh: AFP

Sinh vật giống rắn này không được yêu thích vì vẻ ngoài nhưng khi được chế biến thành món ăn, nó lại trở thành một đặc sản hảo hạng của ẩm thực Nhật Bản. Từ thế kỷ 17, lươn Nhật Bản đã được chế biến theo phong cách truyền thống theo kiểu kabayaki: xiên, nướng và nướng trong hỗn hợp nước tương và rượu gạo mirin.

Ở Shizuoka, miền trung Nhật Bản, nhà hàng của Hachisuka 66 tuổi ở thành phố Hamamatsu đã sử dụng cùng một loại nước sốt trong suốt 4 thập kỷ. “Tôi điều chỉnh theo ý thích của mình. Không nên quá ngọt hoặc quá mặn”, anh nói.

Nhưng trong khi công thức vẫn giữ nguyên, sản phẩm của anh ấy thì không. Sản lượng khai thác hàng năm ở Nhật Bản đã giảm xuống 10% kể từ năm 1960. Điều đó đã khiến giá cả tăng vọt, ngay cả ở một quốc gia đã chiến đấu trong nhiều năm để chống lại lạm phát tăng vọt.

Hachisuka nói: “Unaju – cơm lươn Nhật Bản ngày nay đắt hơn gần ba lần so với thời điểm tôi bắt đầu mở cửa hàng.

Bí ẩn về sự sinh sản của lươn hay “những con không chân” đã khiến các nhà khoa học mê mẩn hàng nghìn năm nay

Có 19 loài cá chình, nhiều loài hiện đang bị đe dọa. Vào năm 2014, cá chình Nhật Bản, hay cá chình Nhật Bản, đã được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế xếp vào danh sách có nguy cơ tuyệt chủng, trong đó trích dẫn các yếu tố bao gồm mất môi trường sống, đánh bắt quá mức và ô nhiễm. và các rào cản di cư. Việc bảo vệ động vật rất khó khăn vì vòng đời phức tạp của chúng, bao phủ một khu vực rộng lớn và nhiều điều chưa biết về cách chúng sinh sản.

Thưởng thức đặc sản

Ông Hachisuka chấm lươn nướng trong nước sốt tại nhà hàng Hamamatsu của mình. Ảnh: AFP

Bí ẩn về sự sinh sản của cá chình đã khiến các nhà khoa học mê mẩn trong hàng nghìn năm, ngay cả nhà triết học và tự nhiên học Hy Lạp cổ đại Aristotle cũng cảm thấy bối rối về nó. Ông đưa ra giả thuyết rằng những con cá chình chỉ nổi lên một cách tự nhiên trong bùn vì ông không thể tìm thấy dấu vết của ấu trùng của chúng.

Mari Kuroki, trợ lý giáo sư khoa sinh học thủy sinh của Đại học Tokyo, giải thích: “Chúng tôi nghĩ rằng cá chình xuất hiện cách đây khoảng 60 triệu năm, gần đảo Borneo. Khi sự trôi dạt lục địa ảnh hưởng đến các dòng hải lưu và khoảng cách giữa các khu vực nơi lươn sống và đẻ trứng ngày càng nhiều, loài sinh vật này đã thích nghi ”.

Thưởng thức đặc sản

Ngư dân Nhật Bản kiểm tra lưới của mình ở Hamamatsu. Ảnh: AFP.

Nó có mặt ở mọi đại dương, ngoại trừ Nam Cực. Nhưng bất chấp sự phổ biến của chúng, phải đến đầu thế kỷ 20, các nhà khoa học châu Âu mới phát hiện ra rằng cá chình châu Âu và châu Mỹ được sinh ra ở biển Sargasso gần Cuba, với ấu trùng của chúng sau đó. được mang theo dòng đến các vùng khác nhau.

Năm 2009, một nghiên cứu khoa học đã xác định chính xác nơi sinh sản của cá chình Nhật Bản, ở phía tây quần đảo Mariana, cách bờ biển Nhật Bản khoảng 2.000 đến 3.000 km. Nhiều bằng chứng cho thấy loài này giao phối và đẻ trứng ngay tại chỗ, nhưng quá trình này chưa bao giờ được quan sát thấy. Khi nở thành ấu trùng, những sinh vật này dạt vào bờ biển. Chúng bơi vào các cửa sông và sông ở Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc và Hàn Quốc, sống trong nước ngọt từ 5 đến 15 năm trước khi bơi ngược ra biển để đẻ trứng, và sau đó chết.

Cá chình Nhật Bản rất dễ bị ảnh hưởng bởi nhiều hành vi can thiệp vào môi trường sống của con người. Các sự kiện liên quan đến biến đổi khí hậu như El Niño cũng ảnh hưởng đến các dòng hải lưu và nơi sinh sản của chúng.

Sự suy giảm của môi trường sống nước ngọt, bao gồm cả sự phát triển của sông, cũng đóng một vai trò quan trọng. Các con đập có thể chặn đường di cư và cá chình đôi khi bị mắc vào các tuabin thủy điện, một nguyên nhân chính gây tử vong cho loài này.

Kể từ năm 2012, các nhà khoa học ở bốn vùng lãnh thổ nơi cá chình Nhật Bản được tìm thấy nhiều nhất đã làm việc cùng nhau về bảo tồn, đưa ra hạn ngạch nuôi trồng thủy sản vào năm 2015. Nhưng những hạn chế, bao gồm lệnh cấm xuất khẩu của Liên minh châu Âu vào năm 2010, đã tạo ra một thị trường chợ đen phát triển mạnh, với nạn săn trộm và quốc tế buôn bán.

Leave a Comment