Mùa khô cá Sa Huỳnh

Rate this post

Trên cát nóng

Giữa cái nắng và gió như trút than vào ngực người đi đường, nhưng bên vệ đường, bên lò hấp, bàn tay khéo léo của người phụ nữ vẫn miệt mài với từng mẻ cá khô thơm mùi biển. Từ đó, từng con cá theo chân những người buôn hồ rong ruổi ngàn dặm. Nằm ven quốc lộ 1A, Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) là vùng đất của biển, của nhiều dấu ấn khảo cổ, của những con người mặn mà. Nghề đi biển, làm muối mấy trăm năm qua cuốn người dân vào cuộc mưu sinh. Ở đó, khi dòng người bắc nam đi qua, bao người ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của biển trời, của những vựa muối và sự cần cù của con người.

Khô cá Sa Huỳnh mùa -0
Nghề làm khô cá kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch đã trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều gia đình.

Giữa cái trời vào mùa mưa ấy, đàn ông đi biển mang về thì phụ nữ lại tiếp tục lưu giữ những sản vật của biển, biến tấu thành nhiều sản vật để mang đi khắp nơi. Mùa nắng cuối hè tràn về, những không gian làng quê vắng tanh mùi biển, mùi tôm cá phơi phới. Người Sa Huỳnh vẫn gọi là mùa chài lưới.

Làng nghề làm khô cá Sa Huỳnh là trái tim của một công trường lớn chuyên chế biến thủy, hải sản khô của tỉnh Quảng Ngãi. Nguồn hải sản của các hộ dân Sa Huỳnh chế biến chủ yếu từ cảng cá Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ. Đây là nơi tập kết hải sản sau khi đánh bắt của gần 1.500 tàu thuyền, đồng thời là cảng cá có lượng hải sản giao thương chiếm 2/3 tổng lượng hải sản của tỉnh. Hơn 4 giờ sáng giữa mùa hè, khi ánh bình minh đầu tiên từ phía đông, những người phụ nữ ở Sa Huỳnh bắt đầu xách những thúng cá đã được xẻ thịt và tẩm ướp trở lại nơi chõng tre đã đợi sẵn. “Ăn cá. Sa Huỳnh có một mùa đánh bắt, cả đất, trời và con người đều tràn ngập mùi và màu của biển từ sương sớm đến hoàng hôn.

Có lẽ, nhiều nơi cũng có nghề làm khô cá, nhưng riêng ở Sa Huỳnh, những bóng phụ nữ đủ lứa tuổi cứ lác đác trên từng con cá từ tờ mờ sáng. Họ phơi cá từ sáng sớm, đến sáng mai lại tiếp tục làm những công việc khác để kiếm tiền.

Khô cá Sa Huỳnh mùa -0
Mùi cá phơi nắng có sức quyến rũ lạ lùng.

Một người phụ nữ vùng biển với chiếc nón lá mỏng manh, chiếc khẩu trang đậm mùi biển, đeo găng tay thoăn thoắt xếp cá trên nồi lẩu, trên sạp hay những tấm lưới mỏng. Các loại cá này là cá sơn, cá phèn, cá tuyết, cá chình, cá đuối, cá trê … Loại cá đó, khi tàu đánh bắt từ biển mang vào, một phần được bán tươi tại chỗ ngay khi tàu cập bờ. , một phần mang về được các chủ vựa xẻ cá để làm khô. Có những cơ sở chuyên chế biến, cung cấp cá khô cho các nơi thuê hàng trăm lao động nữ làm công việc này.

Bà Trần Thị Thu Nhi (51 tuổi) cho biết, trung bình 3kg cá tươi khi làm khô sẽ được 1kg, giá cá khô dao động từ 70.000-80.000 đồng / kg trở lên, tùy loại cá. Hiện nay, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, sức mua trên thị trường có giảm nhưng giá bán vẫn ổn định, trên dưới 120 nghìn đồng / kg loại thường, riêng cá khô quý hiếm giá khoảng vài trăm nghìn. dong. Mỗi ngày, lò sấy cá có thể sấy tới 1 – 2 tấn cá. Nếu thời tiết thuận lợi thì cá nhỏ phơi 2 nắng, cá lớn phơi 3 nắng. Sau khi khô cá, chủ lò sẽ vận chuyển đi bán khắp nơi, tiêu thụ trong và ngoài nước. Những lò sấy cá như thế này cũng tạo công ăn việc làm cho người lao động, thu nhập bình quân 100.000-150.000 đồng / ngày, tùy theo số lượng cá về lò.

Nắng và gió vốn luôn dồi dào ở vùng biển Sa Huỳnh này trở thành nguồn lợi cho nghề làm khô cá. Phụ nữ dầm mình trong nắng nóng, họ nói phơi cá là công việc tàn phá sắc đẹp nhất. Nhưng, công việc đó là kế sinh nhai để nuôi gia đình, cho các em đi học, cho bố mẹ có thêm tiền mua thuốc trong những ngày tồi tệ, cho những mái nhà trong mùa mưa bão. trôi bình yên hơn. Giữa trưa nắng, một người phụ nữ cất tiếng gọi. Không biết từ đâu trong bóng cây, hàng chục phụ nữ khác đổ ra. Đã đến lúc câu cá, công việc phải làm nhanh chóng, kéo dài cả ngày. Cá khô từng giờ dưới nắng gió thơm, người cũng khô héo. Mồ hôi túa ra, chưa kịp chảy đã khô thành vệt trên mặt và trên áo.

Chiều về, những vệt mồ hôi khô đọng từng lớp chồng lên nhau trắng xóa, người phơi cá cũng như “cá khô lớn”. “Khó, nhưng vui. Có việc là vui, sân nhà nhiều cá, bao nhiêu người có tiền! ”, Một người phụ nữ dừng lại lau mồ hôi trên trán, cười nhẹ. Với nghề biển, từ ngư dân, đến bốc vác, cùng hàng nghìn phụ nữ chọn nghề, đảo cá. Trong cái nắng gay gắt, cả vùng cát ven biển như trẩy hội.

Khô cá Sa Huỳnh mùa -0
Khô cá Sa Huỳnh mùa -1
Cá suối, cá trong nắng.

Thuở ban đầu, người xưa làm khô vì lượng cá tươi đánh bắt nhiều, ăn không hết nên được chế biến tích trữ để ăn dần trong những lúc mưa to, bão lớn. Rồi theo thời gian, những người dân nơi đây đi làm ăn, lập nghiệp ở xa đều mang cá khô của quê hương về ăn và được nhiều người ở các nước khen ngợi, nhờ đặt mua. Dần dần từ đó, món khô cá ở làng biển này đã xuất hiện ở các vựa cá khô trong tỉnh và cả ngoài tỉnh.

Sa Huỳnh hiện có 20 cơ sở chế biến thủy sản truyền thống. Các cơ sở sản xuất và cung cấp hải sản khô nổi tiếng trung bình mỗi ngày có vài chục công nhân tham gia vào các công đoạn xẻ thịt, phơi cá. Thu nhập bình quân một người từ 4-4,5 triệu đồng / tháng, khi tàu cá được mùa thì thu nhập có thể tăng lên do lượng cá khô xẻ sấy lớn. Bà Lê Thị Mai, chủ một cơ sở chế biến và làm khô hải sản ở Sa Huỳnh cho biết, mỗi ngày cơ sở thu mua trên 3 tấn hải sản, chủ yếu là mực. Với số lượng trên, mỗi ngày cơ sở cần từ 60-100 lao động. Hiện nay, đầu ra sản phẩm khô của cơ sở ổn định, có lúc sản phẩm làm ra không đủ bán vì nhu cầu lớn trong khi nghề làm khô có đặc thù là phụ thuộc nhiều vào lượng cá đánh bắt. của tàu cá, đặc biệt là thời tiết.

Có những cơ sở sản xuất khô cá sử dụng phương pháp làm khô truyền thống là dùng quạt để đẩy hơi nóng từ bếp than lên vỉ sấy khô. Tuy nhiên, các phương pháp này không được khuyến khích vì chất lượng và mùi vị của cá khô bị giảm chất lượng.

Ở vùng biển Sa Huỳnh có một đặc sản nổi tiếng là cá bông lau. Họ cắt cá và phơi nắng trong hai ngày. Cá trê có chiều dài thân khoảng 30 – 40 cm, tương tự như cá chình, nhưng nhỏ hơn và dẹt hơn. Có lẽ, đó là lý do tại sao nó được gọi là cá trê. Thịt cá ngọt, giòn và thơm. Loại cá này có nhiều ở Quảng Ngãi, nhưng nhiều nhất là ở vùng biển thị trấn Sa Huỳnh. Có những cơ sở tư nhân đã chế biến hải sản khô, đặc biệt là khô cá tra gần 20 năm. Một phụ nữ cho biết, để làm khô cá trê ngon ngọt, nhất định phải chọn cá tươi. Ngoài ra, còn phụ thuộc vào bí quyết ướp cá, tùy theo kinh nghiệm làm cá và thời tiết mà độ “muối” và độ “nắng” cũng thay đổi theo. Cá cắt bỏ đầu, rửa sạch, cắt đôi rồi đem ngâm nước muối pha chút hạt nêm với muối vừa phải để cá thấm. Cá sau khi ngâm muối vớt ra để ráo, tiếp tục được tẩm ướp các loại gia vị như muối, đường, bột ngọt, ớt, dầu với công thức chuẩn vừa phải để làm nên món khô cá tra chuẩn. Bước cuối cùng và quan trọng nhất là phơi khô dưới nắng. Cá được trải trên lưới và đặt trên giàn cao, cách mặt đất 1-1,5m, tránh cát. Nắng vừa đủ để cá se lại, dẻo, không ngấy mà vẫn giữ được vị ngọt của cá. Khô cá trê đạt tiêu chuẩn khi lớp ngoài khô hẳn nhưng thịt bên trong vẫn tươi. Mỗi mẻ khô cá tra cần 2 nắng (phơi 2 ngày) mới khô vừa. Cứ 5 kg cá tươi thì làm được 1 kg cá khô. Quy trình làm rất công phu, bài bản mà giá thành lại rất rẻ. Cá trê mềm, ít xương, khi ăn có vị ngọt, mùi hăng khá đặc trưng, ​​được nhiều người ưa thích. Sản phẩm khô cá tra được tiêu thụ mạnh ở thị trường nội địa, từ Hà Nội đến TP. Hồ Chí Minh.

Khô cá Sa Huỳnh mùa -0
Mỗi ngày Sa Huỳnh có hàng chục tấn cá khô đi vào Nam, Bắc, lên Tây Nguyên và ra nước ngoài.

Không chỉ có đặc sản cá tra, tại Sa Huỳnh mỗi ngày vẫn có hàng chục tấn cá “tắm nắng” đi vào Nam, Bắc, lên Tây Nguyên và ra nước ngoài. Cùng với nghề đi biển, làm muối… nghề làm khô cá truyền thống đã góp phần đáng kể giải quyết việc làm và thu nhập ổn định cho hàng trăm lao động địa phương.

Mùi cá phơi nắng có sức quyến rũ lạ lùng. Làm khô cá tuy chỉ được coi là nghề thời vụ vì chỉ kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch nhưng đã trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều gia đình. Cần cù, lam lũ, những người phụ nữ Sa Huỳnh này vẫn nước mắt với nghề, nếu một ngày không nắng, dường như họ thiếu đi một thứ gì đó gần gũi với cuộc sống hàng ngày mà không thể gọi tên.

Leave a Comment