Tôi nhớ khi làng tôi còn thưa thớt người ở. Căn nhà được bao bọc bởi những bụi chuối xanh mướt. Vì đặc tính sinh trưởng nhanh nên những bụi chuối rậm rạp, rậm rạp thường được trồng sau mỗi ngôi nhà, tạo bức bình phong che chắn, bảo vệ bình an cho gia chủ.
Tuổi thơ của lũ trẻ quê ta chỉ quanh quẩn với bụi chuối sau hè mà chưa biết chán. Chúng tôi chơi đủ trò nghịch ngợm bên cây chuối như chặt lá lợp nhà rồi tuốt lá lấy tiền làm đồ chơi. Những chiếc lá chuối ai đó đã dày công in lên từng nét ngay ngắn, các em chỉ cần tìm gai của cây dứa, cây ngô đồng là sẽ có ngay một quyển vở, một chiếc bút để viết. Chiếc lá đó, được xé thành từng mảnh nhỏ, biến thành một chiếc kèn, một chiếc đồng hồ đeo tay xinh xắn …
Chiếc lá tương tự có khi được thiết kế thành tóc giả đội đầu công chúa, rồi lại biến thành bộ râu dài, vuốt ve đi lại như một nàng tiên trong truyện cổ tích.
Có lẽ gió là “kết tinh” của lá chuối. Ở miền Trung hàng năm cứ vào mùa gió Lào, những khóm chuối lại lác đác, héo úa trong cơn khát. Lá bị đánh tơi tả, teo tóp. Vậy mà “Mùa mưa đến, mùa mưa đến, Trống gõ trên lưng lá chuối” (thơ Trần Hòa Bình), người ta lại thấy sự sống bừng lên trên những đọt chuối, trên những mầm cây vừa mới nhú.
Em yêu nhất là cây chuối mỗi khi phải lao mình vào cơn bão. Những thân cỏ, những gốc sao, trụ nổi những cơn siêu bão lên đến hàng chục cấp năm nào cũng “ghé thăm” miền Trung. Ngồi trong nhà nghe gió hú từng hồi, những thân chuối đổ rạp, đổ rạp. Bố đội mưa kéo vào mấy gốc chuối xanh. Mẹ chẹp miệng, nên tiết kiệm một chút, một năm trồng chuối chẳng đáng là bao!
Đợi bão đi qua, cả nhà lao ra vườn chuối. Khung cảnh hoang tàn, xác chuối ngổn ngang, không còn nhận ra vườn chuối. Vậy mà bên cạnh những nải chuối bị đổ, những mầm bọc vẫn đứng thẳng và tiếp tục vươn lên.
Những mùa mưa bão sau, khi nghe đài báo bão, bố tôi buộc dao vào sào dài, chặt lá chuối (cây nào cũng chặt, chỉ chừa lại 3-4 lá trên ngọn). Thật kỳ diệu, cơn bão sau mạnh hơn cơn bão trước, vậy mà không cây chuối nào bị đổ.
Có thể nói, ít có loại cây nào mang lại nhiều lợi ích như cây chuối, từ gốc đến ngọn đều có thể phát huy hết tác dụng. Trong số những món ngon dân dã có sự góp mặt của chuối, không thể không kể đến ốc bươu vàng om chuối, lươn om chuối đậu. Chuối ở đây chỉ lấy phần gốc non (ngon nhất là phần gốc của cây chuối), rửa sạch, cắt khúc, ngâm vào nước sạch có vắt vài giọt chanh để chuối không bị thâm đen rồi vớt ra. và đun sôi nó, vắt nó. Hồ sơ.
Các nguyên liệu sau khi sơ chế như lươn, ốc được ướp với các loại gia vị thông thường như mắm, muối, tiêu, ớt, tỏi, hành khô. Chờ cho thấm rồi bật bếp, hạ lửa nhỏ. Khi các nguyên liệu chín, cho chuối và lá nguyệt quế vào om. Bữa cơm dọn ra món nào cũng thơm mùi chuối chát, ăn với ốc sần sật dai dai, ăn với thịt lươn chắc, bùi mà ngọt …
Với chuối, ngoài cách ăn chín, chuối xanh tước bỏ vỏ, thái miếng mỏng, ăn kèm với các loại rau củ luộc, chả giò, bún bò, giò heo …. Còn chuối chát cắt khúc om lươn om đậu là một biến tấu khác nhưng khi ăn với cơm nóng thì rất hao cơm.
Lá chuối tuy dân dã nhưng thực chất lại rất hữu ích. Lá chuối khô để gói bánh gai, bánh mật với hương thơm nhẹ nhàng, thanh mát. Có khi cầm chiếc lá ấy, mẹ gói kín nút hũ tương, hũ mắm, hũ khoai, hũ lạc… để thức ăn cất giữ lâu ngày không bị mối mọt, ẩm mốc. Những chiếc lá lành lặn sẽ được dùng để gói bánh chưng. Tết năm nào mẹ cũng cho lũ trẻ ra vườn cắt lá chuối.
Lá bị chặt rồi xếp lại, ôm ra sân ngồi kéo. Sau khi gọt xong rửa dưới vòi nước, lau khô rồi lau sạch. Đáng gờm nhất là những con sâu chuối “nhỏ nhưng có võ”, vô tình chạm vào là đau.
Lá gói đã sẵn sàng rồi đến xôi, bánh, bố mẹ cũng chuẩn bị đầy đủ. Thế là cả nhà bắt tay vào gói bánh, người nặn khuôn, người đổ xôi, người buộc dây bánh, nhộn nhịp, ngon ngọt. Ngay sau khi gói bánh xong, cha tôi xếp ngay ngắn vào một cái nồi lớn, xếp gạch, xây bếp, nhóm lửa.
Thú vị nhất là thức trắng đêm cùng cả nhà để ngắm bánh. Thỉnh thoảng bố lại nhấc nắp nồi lên để kiểm tra nước trong nồi. Mùi hương ấy lại dâng lên, mùi lá chuối dìu dịu, ngây ngất, riêng biệt khó tả, khó gọi tên. Nó chỉ có thể là mùi của nhà.