Quỳnh Như tự sát, từ con mắt hôm nay, có lẽ không khác lắm với cái chết vì tình yêu của Juliet. Điều khác biệt là, Juliet là một nhân vật trong vở kịch của Shakespeare, còn Quỳnh Như thì… chết thật. Tức là cô ấy “chết như tiểu thuyết”, như vậy là quá nhẹ, phải nói là cô ấy đã dùng cả cuộc đời để đánh cược tình yêu. Trong thế giới Nho gia có rất nhiều người vợ vì chồng mà tự tử, nhưng chỉ có một Quỳnh Như tự tử vì người tình, đổi lại nàng là Phạm Thái không gả, chắc cũng là một đấng nam nhi. . Hiếm khi “chung thủy” với người yêu, cho đến chết. Hơn thế nữa, tôi nghĩ, anh ta còn dùng rượu để tự hủy hoại bản thân để nhanh chóng trở về cõi của người tình.
Ai là ai? Tài năng gặp sắc đẹp
Trước hết, chúng ta cần biết rằng cả Phạm Thái và Quỳnh Như đều là hai nhân vật lịch sử có thật. Phạm Thái sinh năm 1777 trong dòng họ Phạm, theo tử vi tự nhận xét là ông có tướng tài ba lỗi lạc. Thân sinh là Trạch Trung, một hầu cận triều Lê Trịnh. Trong khi đó, Quỳnh Như là em gái của Trương Đăng Thứ – một vị quan nhà Lê, hai người có một người cha rất nổi tiếng lúc bấy giờ là Tiến sĩ Trương Đăng Quý, quê ở Thanh Nê (Thái Bình).
Khi quân Tây Sơn tiến ra bắc, xã hội rối ren. Cha Phạm Thái mất khi theo vua Lê. Phạm Thái quyết trả thù đất nước, theo phong trào Cần Vương, phò tá nhà Lê khôi phục quốc gia. Ông bị bức hại, phải cải trang đi tu, lấy pháp danh là Phổ Chiếu thiền sư ở chùa Tiêu. Cải trang thành nhà sư, anh lên Lạng Sơn tìm gặp đồng chí Trương Đăng Thụ để kết giao. Khi ông Thu mất, ông đến thăm bạn bè tại quê nhà Thanh Nê (khoảng năm 1802). Tại đây, ông gặp ông Trương Đăng Quý, được ông quý mến, cho ở nhờ, làm ăn sinh sống tại quê nhà. Chính tại xã này, Phạm Thái đã hòa hợp với Quỳnh Như và phát hiện ra cô cải trang thành đàn ông để bình luận văn học, sách báo. Hai người ngưỡng mộ tài năng của nhau, và có mối quan hệ thông gia. Phạm Thái gặp nhân duyên nên viết “Hồ sơ tân trang” để tặng người yêu. Trương Đăng Quý thấy đôi trẻ hợp nhau, muốn hợp tác làm ăn. Nhưng, mẹ Quỳnh Như chê Phạm Thái bất lực, nghèo khó và hứa gả Quỳnh Như cho người khác. Quỳnh Như không thể từ chối nên đã tự tử để bảo vệ tình yêu của mình.
Từ “lãng mạn” đến tình yêu như một cuốn sách
Trước đây, người ta thường chỉ biết đến mối tình Phạm Thái – Quỳnh Như qua cái chết của Quỳnh chứ không mấy ai biết mối tình đó là như thế nào. Trong bài viết này, tôi cho rằng cả Phạm Thái và Quỳnh Như đã “cảm nắng” nhau, đến với nhau vì cùng đọc và nghiên cứu một dòng sách thành thị đương đại viết về tình yêu đôi lứa. Bộ sách này vẫn thường được các nhà Nho gọi là “dục sách” (sách phi lý), tiêu biểu như “Phan Trần”, “Ngọc Trảm Ký”, “Trường Vũ Hộ Truyện”, …
Trong đó Phan Trần truyện là văn bản đã được dịch ra chữ Nôm ở Việt Nam. Chuyện này kể về chàng thư sinh nhà Nho Phan Tất Chính tán tỉnh ni cô Diệu Thường (Trần Kiều Liên) ngay dưới mái chùa, hai người say đến mức: “Người đất Phật ban ngày, người hang tiên đêm”. Để hợp lý hóa mối tình, tác giả đã khéo léo đưa vào chi tiết “trâm ngọc – hai người trao nhau vật hứa hôn” của hai gia đình trước khi hai người ngủ với nhau.
Chi tiết “trâm ngọc” này sau đó còn được dùng để đặt tên cho cái “thai” trong bụng Diệu Thương, đồng thời cũng là bằng chứng để thoát tội “dâm ô trước hôn nhân” của cả hai người. Thời xưa, “vật hứa hôn” của hai bậc cha mẹ được coi là biểu tượng có giá trị pháp lý và đạo đức đối với lứa đôi. Vì vậy, trong “Phan Trần” và nhiều sách khiêu dâm khác, thường xuất hiện các đối tượng hứa hôn để thực hiện hành vi “cầu siêu” ngoài lễ giáo. “Đọc vị” đã có thể “lách luật”, các nhà Nho vẫn cực lực lên án những cuốn sách khiêu dâm như “Phan Trần”: “Đàn ông không nên đọc Phan Trần, đàn bà không nên đọc Thúy Vân-Thúy Kiều”.
Vậy “Phan Trần” và “Phan Trần” – cuốn tự truyện tình yêu của Phạm Thái có gì giống nhau? Thứ nhất, SKTT xây dựng sự việc hai bên họ Trương – họ Phạm đã đính hôn với nhau. Trong khi đó, ở góc độ lịch sử, chúng ta biết Phạm Thái là bạn của Trương Đăng Thụ – anh của Quỳnh Như. Cha của Phạm Thái và Trương Đăng Quế không quen biết nhau, đã hẹn gặp nhau. Việc SKTT dùng chiếc lược gương làm vật cầu ước giữa hai họ Phạm-Trưởng thực chất là làm giả chiếc trâm cài quạt ngọc ngà trong tác phẩm “Phan Trần”: “Muốn giữ nghĩa kim lan / Cây trâm quạt, phải định Trần-Phan một chữ. ”. Như vậy, Phạm Thái đã có công khai sáng, khi nêu tên hai họ Trần – Phan trong sách Phan Trần. Điểm giống thứ hai, Quỳnh Thư trong SKTT được miêu tả là xinh đẹp, nết na, giỏi thơ văn, giọng văn sành sỏi như Diệu Thương trong “Phan Trần” và “Cổ Kim nữ sử”.
Truyện này chép rằng Diệu Thường ở chùa Nữ Trinh hơn 20 tuổi, sắc đẹp tuyệt trần, văn thơ, nhạc họa giỏi, biết cầm kỳ thi họa. Nam chính của cả hai truyện đều là Khổng Tước. Như vậy, cặp nhân vật chính trong SKTT được xây dựng giống như truyện “Phan Trần”. Nhưng “Phan Trần” là chuyện, còn Phạm Thái và Quỳnh Như là có thật, chuyện nam nữ diễn viên gặp nhau rồi yêu nhau là chuyện bình thường. Điều này cho thấy “Phan Trần” có ảnh hưởng tích cực đến chuyện tình của Phạm Thái và Quỳnh Như.
Dấu vết tình yêu
Ngoài hai chi tiết trên, tôi còn phát hiện ra một bằng chứng vô cùng thú vị khác, đó là dấu vết của truyện “Trương Vũ Hổ” đối với Phạm Thái và Quỳnh Thư. Như đã nói ở trên, truyện “Phan Trần” là một vở diễn Nôm ở Việt Nam vào thế kỷ 18-19 ở Việt Nam từ nguyên bản Ngọc Trản Ký viết bằng chữ Hán. Bản thân tác phẩm này của Trung Quốc cũng có nhiều dị bản khác nhau, trong đó truyện “Trường Vũ Hổ” chỉ có bản tiếng Trung chưa từng được dịch sang tiếng Việt. Tuy nhiên, có dấu vết rõ ràng là các tác giả (Phạm Thái, Quỳnh Như) đã đọc trực tiếp văn bản chữ Hán “Trường Vũ Hồ Truyện” mà không cần phải xem qua bản Nôm.
Nếu trong “Trường Vũ Hồ Truyện”, Tất Chính đã phát hiện ra tài năng và hồn thơ của Diệu Thương qua bài “Tây Giang Nguyệt” thì trong SKTT, họ Phạm và họ Trương cũng sử dụng làn điệu “Tây Giang Nguyệt”. ”(Trong khi Phan Trần chỉ dùng thơ Lục bát, Đường luật). Nếu, SKTT là cuốn tự truyện về chuyện tình Phạm Thái – Quỳnh Như làm quà tặng cho Quỳnh Như, thì rất có thể Phạm Thái đã giữ nguyên bản gốc của hai bức ký họa hiện thực của hai người. Đó được coi là lý do để hai người liên tài, bén duyên và đến với nhau, là dấu hiệu để hai người nhận ra “tình trong”. Tây Giang Nguyệt là tín hiệu để hai người nhận ra sở trường văn chương và tâm hồn luôn hướng về tình yêu như trong sách.
Bài viết đầu tiên như sau:
Oanh Yến ríu rít gọi khách,
Cỏ cây hoa lá hân hoan.
Gió xuân xô người,
Nó rất dễ nhầm lẫn với thơ.
Cây liễu dệt ngoạn mục,
Thung lũng hoa mai bướm phấn.
Diễn xuất của Vũ Lăng đến đâu rồi,
Đừng hỏi Đào Nguyên ở đâu!
Bài này do họ Phạm gửi trước để hỏi. Vì không rõ người nhận tình cảm như thế nào nên ca từ của bài đăng này vô cùng ý nhị. Chim hót, chim hoàng yến ríu rít báo hiệu một tin vui, cỏ cây đang hân hoan mừng xuân. Hai từ “khách” và “ai” ở cuối câu rất vu vơ, nhưng thực chất là nhắm vào người nhận: ai là ai và khách là ai. Rồi những tín hiệu được đưa ra rất nhẹ nhàng: “liễu rủ”, “bướm mai”, đều là tín hiệu của mùa xuân. Làm tiền đề cho câu kết dưới dạng câu hỏi: Đào Nguyên ở đâu? Chữ Đạo Nguyên là chữ nghĩa kép, nếu là nhà Nho thì cho rằng đó là cảnh giới lý tưởng trong thơ Đào Uyên Minh, còn nếu là người mơ mộng thì nghĩ ngay đến điển tích Lưu – Nguyên vào Thiên Thai và gặp sự cổ tích trong thơ Đường. . Tức là Phạm Thái đã dùng một từ có hai tầng nghĩa để ngụy tạo cho tình cảm của mình, khiến cho việc hỏi cung trở nên hết sức tế nhị và lịch sự. Và khi Quỳnh Như bắt sóng, cô đã đáp lại bằng những lời lẽ đúng đắn:
Lặng sương chờ khách,
Cổng trăng rộng mở đợi ai.
Có một số người tài năng và tài năng,
Cảm thấy hoang mang hơn.
Gió lay động cành liễu,
Xả cành mai tuyết.
Cao và cao, xa,
Có ai biết Bồng Doanh không?
Câu trả lời không chỉ là có. Dù sương giăng kín lối nhưng thực ra vẫn đang “đợi khách”, cửa trăng mở toang như đang đợi ai. Tín hiệu đã quá rõ ràng. Bài trên hỏi khách, hỏi ai, thì câu trả lời rõ ràng là nên có người đến gõ cửa thưởng trăng. Vì cả thế giới đang đợi bạn. Bởi lẽ, đọc thành văn, Quỳnh Như đã nói rõ rằng: đời này nữ diễn viên có mấy ai, nên tâm trạng của người gửi dù rối bời nhưng cũng khiến người đọc bâng khuâng. . Nếu trong thơ anh “bồng bềnh” thì trong thơ chị lại “xao xuyến”. Nếu anh ngại ngùng thú nhận, cô sẽ sẵn lòng đáp lại. Nếu chàng khéo léo nói về địa danh Đào Nguyên thì nàng lại chỉ về chốn bồng lai tiên cảnh.
Có thể nói SKTT là một cuốn tự truyện về tình yêu, phần đầu được sáng tác vào năm 1804, được Phạm Thái dùng để tặng người yêu của mình. Đặc biệt, “thanh mai trúc mã” của tình yêu là làn điệu Tây Giang Nguyệt trong vở “Trường Vũ Hồ Truyện”. Nhưng đời không như là truyện, không có người báo đáp, Quỳnh tìm đến cái chết để gìn giữ tình yêu. đầu đời, và tình yêu ấy đã đi vào mùa thu với những dòng nước mắt mà Phạm Thái đã để lại trong thơ Nôm của mình.