Tiềm năng du lịch của ba dự án thủy lợi lớn ở miền Trung

Rate this post

(SGTT) – Với việc dãy Trường Sơn ăn sâu ra biển, đồng bằng hầu hết nhỏ hẹp, địa hình có độ dốc lớn … thì vấn đề “dẫn nước vào ruộng” (đưa nước vào ruộng) ở miền Trung có từ bao đời nay. người tiền nhiệm được tính đến. Sau các công trình thủy lợi dưới các triều đại Champa, dưới thời Pháp, họ đã để lại cho vùng này 3 công trình thủy lợi lớn vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay. Đó là đập Bái Thượng, tỉnh Thanh Hóa, đập Bara Đô Lương, tỉnh Nghệ An và đập Đồng Cam, tỉnh Phú Yên.

Từ Bái Thượng, Đô Lương…

Công trình đầu tiên phải kể đến là đập Bái Thượng ở Thanh Hóa. Công trình này được người Pháp khởi công vào năm 1918 và là công trình thủy lợi đầu tiên ở Trung Kỳ, bao gồm đập Bái Thượng dài 160m, cao 20m bằng bê tông và hệ thống kênh mương dài 110km tưới cho khoảng 50.000 ha đất Chu. Lưu vực sông, trong đó có nhiều đồn điền lúa, bông và cây công nghiệp. dưới sự cai trị của Pháp.

Đập chính được khởi công ngày 28/3/1920, khánh thành ngày 10/1/1926 và toàn bộ hệ thống chính thức được giao cho Sở Thủy nông Trung Kỳ quản lý từ ngày 27/8/1928.

Đầm Đô Lương, Nghệ An. Nguồn: Từ điển Bách khoa Việt Nam

Dự án thứ hai là đập Bara Đô Lương. Sông Đào là tên một số con sông nhân tạo trên địa bàn tỉnh Nghệ An, đây đều là những công trình thủy lợi được hình thành từ thời Pháp thuộc, lấy nước từ sông Lam phục vụ tưới tiêu cho các huyện vùng đồng bằng ven biển. biển Nghệ An. Con sông thứ nhất bắt nguồn từ thị trấn Nam Đàn, chảy đến huyện Hưng Nguyên và chia thành hai nhánh: một nhánh chảy về thành phố Vinh (gọi là sông Vinh), nhánh còn lại chảy về phía bắc đến địa phận huyện Nghi. Lộc và đổ ra sông Cấm.

Sông có lưu lượng nước lớn trên 30 m³ / s, có chức năng tưới cho trên 30.000 ha đồng ruộng, phục vụ nước sinh hoạt và phòng chống lũ lụt cho các địa phương. Con sông thứ hai thuộc hệ thống thủy lợi Bắc Nghệ An, được xây dựng từ những năm 1930. Sông bắt nguồn từ xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương, gần thị trấn Đô Lương.

Tại đây có hệ thống đập Bara Đô Lương dài 340m có nhiệm vụ ngăn dòng chảy của sông Lam khiến nước dâng cao 10m so với mực nước biển, sau đó đổ ra sông Đào phục vụ tưới tiêu cho gần 29.000 ha đất ruộng. công nghiệp và tạo nước cấp cho công nghiệp, nước sinh hoạt cho 4 huyện: Đô Lương, Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu và thị xã Hoàng Mai. Theo thiết kế, lưu lượng nước trung bình đến sông Đào là 30 m³ / s.

Tô Đồng Cẩm

Và công trình thủy lợi lớn thứ ba ở miền Trung là đập Đồng Cam tỉnh Phú Yên hay còn gọi là đập Thủy Phong.

Xây dựng đập Đồng Cam. Nguồn: Tài liệu

Theo ông Lê Văn Hưởng, nguyên Phó Giám đốc Công ty Nuôi trồng thủy sản Đồng Cam, sở dĩ đập Đồng Cam còn có tên là đập Thủy Phong vì liên quan đến ngày khánh thành công trình là 7/9/1932, tức năm 2022 này đã được. hoàn thành. Tròn 90 năm.

Theo kế hoạch, hôm ấy, vua Bảo Đại từ Huế vào Phú Yên dự lễ khánh thành công trình thủy lợi lớn Đồng Cam, nhưng vì thời tiết không thuận lợi nên vua đi đường thủy sang sông. Cây cầu phải dừng lại.

Con đường xuyên rừng nguyên sinh ở đập Đồng Cam. Ảnh: Trần Thanh Hùng

Để kỷ niệm ngày vua đến Phú Yên dự một sự kiện quan trọng, người Pháp đã cho dựng một tấm biển mạ vàng ghi tên công trình là Thủy Phong Đàm, một tên gọi khác của vua Bảo Đại, vì lúc đó không ai dám gọi. . bằng tên, chỉ gọi vua bằng tên của những điều cấm kỵ. Thật không may, tấm bảng này đã bị đánh cắp, giờ chỉ còn lại dấu vết của tấm ván được gắn vào.

Theo những tài liệu người Pháp để lại thì việc thủy lợi cho đồng lúa Tuy Hòa lúc bấy giờ là một vấn đề hết sức quan trọng và được nhân dân trông đợi. Trước đây, dưới triều đại Ayaru, người Chăm đã làm nên một bộ phận. Nhờ vậy mà vùng đất Tuy Hòa khá trù phú. Nhiều cuộc khai quật khảo cổ học hoặc xây dựng hệ thống thủy lợi sau này đã phát hiện ra một số công trình kiến ​​trúc bằng đất nền, bao gồm cả kênh dẫn nước.

Ông Lê Văn Hưởng, nguyên Phó Giám đốc Công ty Nuôi trồng thủy sản Đồng Cam trong ngày kỷ niệm thành lập năm 1930. Ảnh: Trần Thanh Hùng

Từ năm 1889, nhiều kỹ sư người Pháp đã tiếp tục nghiên cứu xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu và họ đặc biệt quan tâm đến giải pháp dẫn nước từ sông Ba về tưới cho đồng bằng Tuy Hòa bằng hệ thống tự chảy.

Từ ý tưởng truyền thống “để nước vào ruộng” của người Chăm và những khảo sát ban đầu, 15 năm sau, năm 1904, các kỹ sư người Pháp chính thức bắt tay vào nghiên cứu thiết kế hệ thống thủy lợi Đồng Cam. dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trưởng Desbos, người được tôn vinh là bậc thầy khai sinh ra các công trình thủy lợi ở Đông Dương. Kỹ sư Fayard trực tiếp thiết lập dự án, nhưng do khó khăn về tài chính nên không thể triển khai. Cho đến năm 1920, kỹ sư Nordey tiếp tục hoàn thành dự án dưới sự hướng dẫn của kỹ sư trưởng Lefèvre và dự án hoàn thành được phê duyệt vào ngày 30/11/1923.

Đập tràn và kênh chính đập Đồng Cam. Ảnh: Trần Thanh Hùng

Nội dung chính của dự án là xây dựng đập dâng Đồng Cam dài 680m trên bãi đá sông Đà Rằng và hệ thống 2 kênh chính (nay là kênh chính Bắc và kênh chính Nam), đảm bảo nước tưới cho 19.000 người. ha (hữu ngạn 11.000 ha, tả ngạn 8.000 ha).

Để hoàn thành công trình này, trung bình mỗi ngày có 1.500 công nhân, cao điểm lên đến 5.000 người, làm việc miệt mài trong 6 năm (1924 – 1929) và 3 năm khắc phục, gia cố và hoàn thiện. Môi trường làm việc lúc bấy giờ vô cùng khắc nghiệt như rừng thiêng, nước độc, sốt rét; tai nạn trong quá trình nổ mìn, phá đá… cũng đã xảy ra.

Hơn 2 triệu mét khối đất và 360 nghìn mét khối đá đã bị đào, vỡ; hơn 20 nghìn khối bê tông và 20 nghìn khối đá đã được thi công; Hàng trăm khối gỗ và hàng trăm tấn sắt thép được vận chuyển đến công trường…

Công trình hoàn thành, đưa vào sử dụng năm 1932 và khai thác hết công suất tưới vào năm 1933. Đập Đồng Cam tiêu tốn 2,1 triệu đồng Đông Dương lúc bấy giờ, tương đương 262.000 tấn gạo.

Ảnh: Trần Thanh Hùng

Trong hoàn cảnh “rừng thiêng nước độc”, hơn 5,35 triệu công lao động đã “đồng cam cộng khổ” để xây dựng con đập hùng vĩ này với hơn 2.500 hạng mục lớn nhỏ cùng với hệ thống công nông với hai con kênh. Nước, khoảng 200km kênh, rạch dẫn nước nhịp nhàng, đồng bộ cho toàn bộ cánh đồng lúa Tuy Hòa rộng 220 km².

Ngay sau khi công trình đưa vào sử dụng, cánh đồng Tuy Hòa sản xuất ổn định hai vụ / năm, nhanh chóng trở thành vựa lúa lớn nhất miền Trung. Tiếp đó, vùng nguyên liệu mía được hình thành, thúc đẩy sự ra đời của Nhà máy đường Đồng Bò, cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng nhất của Phú Yên trước Cách mạng Tháng Tám.

Năm 1942, nhà thơ Huỳnh Khinh đến thăm đập, lấy cảm hứng làm thơ:

Ghé thăm đập Đồng Cam để xem nước ngọt

Màu xanh lá cây, một màu của nước và trẻ

Tôi thề sẽ trung thành ôm lấy nước

Nước nặng nghĩa tình, kề vai sát cánh cùng non sông.

Trẻ giữ sông bảo vệ nguồn nước

Đất nước nuôi sống những ngọn đồi và đất đai để tạo nên tuổi trẻ

Đúc khối tình yêu trẻ

Rất khó để tách khối nước non.

Hằng năm, cứ đến ngày mùng 8 tháng Giêng, các thế hệ lãnh đạo và nhân dân Phú Yên lại về đập Đồng Cam dâng hương tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã để lại công trình thủy lợi lớn cho hậu thế.

Vẻ đẹp của đập Đồng Cam ngày nay. Ảnh: Trần Thanh Hùng

Đập Bái Thượng, Đô Lương hay Đồng Cam không chỉ là những công trình thủy lợi có giá trị kỹ thuật lớn của miền Trung, mà còn là những di sản văn hóa kết tinh công sức và trí tuệ. của các lớp tiền nhân.

Việc xác định vị trí xây dựng, thiết kế công trình, tính toán chính xác từng hạng mục, độ bền vượt thời gian của các công trình này, đặc biệt là quá trình xây dựng chủ yếu bằng sức người là điều khiến thế hệ sau vô cùng khâm phục và kính trọng.

Nếu tiếp tục tôn tạo và khai thác hiệu quả, đây sẽ là những điểm du lịch về cảnh quan, văn hóa, lịch sử, kiến ​​trúc độc đáo của Thanh Hóa, Nghệ An và Phú Yên.

Trần Thanh Hùng

Bài viết có sử dụng tư liệu Non nước Phú Yên của Nguyễn Đình Tú và hình ảnh trên Từ điển Bách khoa Việt Nam

Leave a Comment