Đây được coi là động thái nhằm tạo “đòn bẩy” cho dự án, tránh tình trạng chủ đầu tư được nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng chậm tiến độ vẫn không thể đưa dự án vào hoạt động. liên tục nhiều năm gây lãng phí tài nguyên đất.
Để tạo cơ chế ràng buộc về cam kết tiến độ xây dựng và hoàn thành dự án, việc ký quỹ đầu tư là cần thiết, tránh trường hợp nhà đầu tư “ôm” đất lâu không triển khai (ảnh dự án dở dang). dang ở huyện Nam Đàn, Nghệ An).
Đặt cọc để khỏi “ôm” đất
Theo quy định tại khoản 1 Điều 43, khoản 4 Điều 77 Luật đầu tư năm 2020 và Điều 25 Nghị định 31/2021 / NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật này, khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, nhà đầu tư phải ký quỹ hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Đây là yêu cầu bắt buộc để đảm bảo thực hiện dự án đầu tư cho doanh nghiệp sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chấp thuận chủ trương đầu tư đối với công trình dự án để có lộ trình phê duyệt tiếp theo. giấy phép xây dựng, công nhận đủ điều kiện xây dựng…
[ Ký quỹ bảo đảm thực hiện dự án đầu tư sẽ góp phần giảm thiểu trường hợp nhà đầu tư sau khi được nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng vẫn cố tình “ôm” đất, không triển khai dự án như cam kết.]
Cụ thể, đối với phần vốn lên đến 300 tỷ đồng, tỷ lệ ký quỹ là 3%; Đối với phần vốn trên 300 tỷ đồng đến 1.000 tỷ đồng, tỷ lệ ký quỹ là 2%; Đối với vốn trên 1.000 tỷ đồng, tỷ lệ ký quỹ là 1%. Tức là, tùy theo tổng mức đầu tư của dự án xây dựng được phê duyệt tại quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư, nhà đầu tư phải ký quỹ hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với số tiền. tiền tương ứng với tỷ lệ phần trăm vốn đăng ký để thực hiện dự án.
Hoàn trả 50% hoặc giảm 50% mức bảo lãnh tại thời điểm nhà đầu tư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. và xin giấy phép hoặc chấp thuận khác để thực hiện hoạt động xây dựng. Số tiền còn lại sẽ được hoàn trả hoặc chấm dứt hiệu lực của bảo lãnh đặt cọc tại thời điểm chủ đầu tư hoàn thành nghiệm thu công trình xây dựng.
Và, thời gian hoàn thành đúng tiến độ công trình được thỏa thuận tương ứng với thời điểm chủ đầu tư được nghiệm thu đưa công trình vào sử dụng cũng được ràng buộc bởi những điều khoản rất cụ thể.
Như vậy, yêu cầu ký quỹ, bảo lãnh của các tổ chức tín dụng theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020 và Nghị định 31/2021 / NĐ-CP đã góp phần tạo ra cơ chế “barie” về hiệu quả hoạt động. dự án sau khi nhà đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất …
Có một số thiếu sót
Với quy định trên, một số nhà đầu tư cho rằng, việc ký quỹ bảo đảm đầu tư dự án được coi là hình thức doanh nghiệp bắt buộc phải “ký quỹ” một khoản tiền nhất định trước khi được nhà nước giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Tuy nhiên, đối với các trường hợp nhà đầu tư trúng đấu giá quyền sử dụng đất để thực hiện dự án, nhiều nhà đầu tư cũng nhận thấy một số bất cập trong việc xác định khung hạn mức để xác định số tiền ký quỹ đầu tư. riêng.
“Doanh nghiệp chúng tôi mới trúng đấu giá quyền sử dụng đất theo hình thức được Nhà nước giao đất, trả tiền hàng năm tại thị xã Cửa Lò để thực hiện dự án xây dựng công trình tại đây.
Tuy nhiên, khi thực hiện thủ tục ký quỹ bảo lãnh đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư 2020 và Nghị định 31 / NĐ-CP, cơ quan có thẩm quyền yêu cầu ký quỹ tương ứng với tổng mức đầu tư. đầu tư mà địa phương đã ước tính ban đầu về giá trị khu đất thực hiện dự án để đưa ra đấu giá.
Trong khi thực tế, khi tính toán để thực hiện các dự án mà doanh nghiệp xây dựng, tổng mức đầu tư đưa ra không thể sát với mức dự toán ban đầu mà cơ quan quản lý nhà nước đưa ra. Điều này cũng khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian tư vấn và đau đầu trong việc điều chỉnh vốn đầu tư cho phù hợp với nhu cầu và giá trị lô đất để hoàn thành việc ký quỹ đầu tư. đại diện một doanh nghiệp trúng đấu giá khu đất sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ trên địa bàn thị xã Cửa Lò, Nghệ An cho biết.
Bên cạnh những bất cập trên, nhiều chuyên gia cho rằng, việc duy trì ký quỹ đầu tư là cách “nội soi” năng lực tài chính của nhà đầu tư sau khi chủ trương đầu tư dự án trên địa bàn đã được phê duyệt. .
Tuy nhiên, theo phân bổ ở 03 mức tỷ lệ ký quỹ, trong đó dự án có nguồn vốn càng lớn thì mức ký quỹ càng giảm, gây ra nhiều bất cập. Do dự án có vốn lớn hơn nên cần có nhà đầu tư đủ năng lực tài chính, mức ký quỹ không được giảm để tạo cơ chế ràng buộc, tránh tình trạng dự án treo, dự án chậm tiến độ …